LÝ THÀNH PHƯƠNG
Nước ta trước khi có văn chương bác học, đã có một nền văn chương bình dân truyền khẩu. Văn chương truyền khẩu ấy là tục ngữ và ca dao. Trong phần này chúng ta sẽ ôn lại những tinh túy của ca dao.
Định nghĩa ca dao
Ca là hát, dao là bài hát không có chương khúc. Ca dao là những bài hát ngắn lưu hành trong dân gian, thường tả tính tình phong tục của người bình dân. Bởi thế ca dao nhiều khi cũng được gọi là phong dao.
Ca dao cũng như tục ngữ, không biết tác giả là ai; chắc lúc ban đầu cũng do một người vì có cảm xúc mà làm nên, rồi người sau nhớ lấy mà truyền tụng mãi đến bây giờ.
Xét về thể văn
Ca dao viết theo mấy thể văn sau đây:
Thể lục bát chính thức (câu 6 câu 8 kế tiếp nhau), hoặc thể lục bát biến thức (thỉnh thoảng có xen những câu dài hơn 6 hoặc 8 chữ):
Tò vò mà nuôi con nhện
Ngày sau nó lớn nó quện nó đi
Tò vò ngồi khóc tỉ ti
Nhện ơi! Nhện hỡi! Mày đi đàng nào?
Thể lục bát biến thức:
Công anh đắp nấm, trồng chanh
Chẳng được ăn quả, vịn cành cho cam
Xin đừng ra dạ bắc nam
Nhất nhật bất kiến như tam thu hề
Huống tam thu như bất kiến hề
Đường kia, nỗi nọ như chia mối sầu
Chắc về đâu đã hẳn hơn đâu
Cầu tre vững nhịp hơn cầu thương gia
Bắc thang lên thử hỏi trăng già
Phải rằng phận gái hạt mưa sa giữa trời
May ra gặp được giếng khơi
Vừa trong vừa mát lại nơi thanh nhàn
Chẳng may số phận gian nan
Lầm than cũng chịu phàn nàn cùng ai
Đã yêu nhau, giá thú bất luận tài!
Thể song thất lục bát chính thức:
Bác mẹ già phơ phơ đầu bạc
Con chàng còn trứng nước thơ ngây
Có hay chàng ở đâu đây
Thiếp xin mượn cánh chắp bay theo chàng
Thể song thất lục bát biến thức:
Chòng chành như nón không quai
Như thuyền không lái như ai không chồng
Gái có chồng như gông đeo cổ
Gái không chồng như phản gỗ long đanh
Phản long đanh anh còn chữa được
Gái không chồng chạy ngược chạy xuôi
Không chồng khổ lắm, chị em ơi!
Thể nói lối: câu đặt thường bốn chữ, cứ chữ cuối câu trên vần với chữ thứ hai, hoặc chữ cuối câu dưới.
Lạy trời mưa xuống
Lấy nước tôi uống
Lấy ruộng tôi cày
Lấy bát cơm đầy
Lấy cá to
Có khi một bài gồm hai hoặc ba thể trên:
Quả cau nho nhỏ
Cái vỏ vân vân
Nay anh học gần
Mai anh học xa
Anh lấy em từ thuở mười ba
Đến năm mười tám em đà năm con
Ngoài đường em hãy còn son
Về nhà em đã năm con cùng chàng
Xét về kết cấu
Nghĩa là cách sắp đặt các ý tứ cho thành một bài văn, thì ca dao chia làm ba thể:
Thế phú: phú nghĩa là phô bày, mô tả; trong thể này, muốn nói về người nào, việc nào thì nói thẳng ngay về người ấy, việc ấy.
Ngang lang thì thắt bao vàng
Đầu đội nón dấu, vai mang súng dài
Một tay thì cắp hỏa mai
Một tay cắp giáo, quan sai xuống thuyền
Thùng thùng trống đánh ngũ liên
Bước chân xuống thuyền nước mắt như mưa
Hoặc:
Đường vô xứ Nghệ quanh quanh
Non xanh, nước biếc như tranh họa đồ
Ai vô xứ Nghệ thì vô
Thể tỉ: tỉ nghĩa là ví, so sánh; trong thể này, muốn nói gì, không nói thẳng ra, lại mượn một sự vật ở ngoài làm tỉ ngữ để người nghe ngẫm nghĩ mà hiểu lấy cái ý ngụ ở trong.
Bầu ơi! thương lấy bí cùng
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn
Thể hứng: hứng là nổi lên, đây nói về tình của người ta nhân cảm xúc vì vật ngoài mà phát ra. Trong thể này, trước tả một vật gì làm câu khai mào, rồi mượn đấy mà tiếp tục xuống ý mình muốn nói.
Trên trời có đám mây xanh
Ở giữa mây trắng, chung quanh mây vàng
Ước gì anh lấy được nàng
Thời anh mua gạch Bát tràng về xây
Xây dọc, rồi lại xây ngang.
Xây hồ bán nguyệt cho nàng rửa chân
Cũng có khi một bài kiêm nhiều thể, như:
Phú và tỉ:
Trong đầm gì đẹp bằng sen
Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng
Nhị vàng, bông trắng, lá xanh
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.
Bài này vừa tả hoa sen (phú), vừa ví người quân tử với hoa sen (tỉ).
Phú và hứng:
Qua cầu ngả nón trông cầu
Cầu bao nhiêu nhịp, em sầu bấy nhiêu
Bài này vừa tả cái cầu (phú), vừa mượn cảnh cái cầu mà nói nỗi sầu của mình (hứng).
Hứng và tỉ:
Dao vàng bỏ đẫy kim nhung
Biết rằng quân tử có dùng ta chăng?
Trong bài này, có mượn dao vàng để nói đến tình mình (hứng), vừa ví mình như con dao vàng (tỉ).
Phú, hứng và tỉ:
Sơn bình Kẻ Gốm không xa
Cách một cái quán, với ba quãng đồng
Bên dưới có sông, bên trên có chợ
Ta lấy mình làm vợ nên chăng?
Tre già để gốc cho măng
Toàn bài là thể hứng, bốn câu đầu là thể phú, câu cuối là thể tỉ.
Xét về ý nghĩa
Ca dao nước ta thật là phong phú và diễn tả đủ các tình ý trong lòng người và các trạng thái xã hội. Dưới đây là một số bài tiêu biểu có ý nghĩa:
Thằng Bờm
Thằng Bờm có cái quạt mo
Phú ông xin đổi ba bò, chín trâu
Bờm rằng: Bờm chẳng lấy trâu
Phú ông xin đổi một xâu cá mè
Bờm rằng: Bờm chẳng lấy mè
Phú ông xin đổi một bè gỗ lim
Bờm rằng: Bờm chẳng lấy lim
Phú ông xin đổi con chim đồi mồi
Bờm rằng: Bờm chẳng lấy mồi
Phú ông xin đổi nắm xôi, Bờm cười
Bậc quân tử
Trong đầm gì đẹp bằng sen
Lá xanh, bông trắng, lại thêm nhụy vàng
Nhụy vàng, bông trắng, lá xanh
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn
Bậc anh hùng
Làm trai cho đáng nên trai
Xuống đông đông tĩnh, lên đoài đoài tan
Người ăn chơi
Ăn được ngủ được là tiên
Không ăn không ngủ là tiền vất đi
Tướng người
Những người ti hí mắt lươn
Trai thì trộm cướp, gái buôn chồng người
Lịch sử
Nhớ em anh cũng muốn vô,
Sợ truông nhà Hồ, sợ phá Tam Giang
Phá Tam giang ngày rày đã cạn
Truông nhà Hồ, Nội tán cấm nghiêm
Kết luận
Số lượng Tục ngữ và Ca dao trong Văn chương bình dân lên đến hàng ngàn câu và bài hát. Có nhiều học giả thông suốt văn chương nước ngoài như tiếng Pháp và tiếng Anh cho rằng Tục ngữ và Ca dao của người Việt ta phong phú hơn các nước Tây phương.
Theo thiển ý của tác giả thì có lẽ do hoàn cảnh đặc thù của người Việt là có thời kỳ lập quốc ngắn ngủi thì rơi vào một ngàn năm Bắc thuộc nên không có chữ viết. Trong thời gian dài hơn mười thế kỷ không có chữ viết, những sáng tác phong phú về văn chương, để lưu lại đời sau, không có cách nào khác là phải qua phương tiện truyền khẩu trong giới bình dân.
Tóm lại mà nói, thì tục ngữ ca dao chiếm một địa vị quan trọng trong văn học, vì đó là một cái kho tài liệu để ta khảo cứu tính tình, phong tục, ngôn ngữ của người mình. Cùng với những truyền thuyết và cổ tích, tục ngữ và ca dao là những phần căn bản để học sinh bắt đầu học tập văn học và văn hóa Việt Nam.
(Trích Việt Nam văn học sử yếu của tác giả Dương Quảng Hàm)