Từ cổ trong Truyện Kiều – Kỳ 2

by Tim Bui
Từ cổ trong Truyện Kiều - Kỳ 2

ĐINH VĂN TUẤN

Câu 12: “Gia tư nghĩ cũng thường thường bậc trung”

Các bản Kiều Nôm đều dùng chữ nghĩ 擬, riêng Đoạn trường tân thanh của Kiều Oánh Mậu (1902) khắc nghỉ . Trương Vĩnh Ký (1875), E. Nordemann (1898) phiên là “nghỉ” và sau đến Bùi Kỷ – Trần Trọng Kim (1927), Tản Đà (1941), Lê Văn Hòe (1953) cũng đọc hiểu là “nghỉ” (ông ấy, hắn ta, nó). Nhưng đây là thổ âm Nghệ Tĩnh không phổ biến.

Chữ 擬 này, đã được rất nhiều học giả mổ xẻ, tranh cãi nhưng nhìn chung âm đọc NGHĨ ngày càng được nhiều nhà đồng thuận hơn là NGHỈ. Nguyễn Du khi viết về Vương viên ngoại thường dùng “ông” ở các câu 656, 666, 683, 896, 2757, 2800, 3027, 3051. Nguyên truyện viết họ Vương dùng tiền để mua chức “viên ngoại” vì vậy tiền bạc đã cạn nên mới dẫn đến thảm cảnh Thúy Kiều phải bán mình chuộc cha. Vậy ở ngữ cảnh này, Nguyễn Du dùng “NGHĨ cũng” (nghĩ ra cũng, xem ra cũng): Gia cảnh Vương viên ngoại tuy giàu nhưng nay (vì sa sút) nghĩ ra cũng chỉ vào hạng tầm thường, trung bình mà thôi. Về âm hưởng, âm “nghĩ” phù hợp và hay hơn âm “nghỉ.” 

Câu 32: “Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương” 

Hồ cầm 胡琹: thường chỉ loại đàn dùng cần vĩ kéo, cọ xát dây đàn để phát ra âm thanh của tộc người Hồ (rợ phương bắc Trung Hoa).

Nhưng ở Truyện Kiều, Hồ cầm có thể hiểu là đàn Tỳ bà (có bốn dây đàn) dùng các ngón tay bấm phím và gảy dây. Lưu Hi đời Hán Triệu đã viết trong Thích danh: “批把以出胡中” (đàn Tỳ bà (批把=琵琶) xuất xứ từ tộc Hồ) nên Tỳ bà được gọi là Hồ cầm. Đời Tần có loại đàn Tỳ bà gọi là “Tần Tỳ bà” có bốn dây đàn, thùng đàn tròn sau biến thể thành Nguyệt cầm (cũng có bốn dây, thùng đàn tròn) hay còn gọi là đàn Nguyễn, Nguyễn Cầm vì lấy tên của người chế tác đàn là Nguyễn Hàm đời Đông Tấn. Nguyên truyện chỉ cho Thúy Kiều gảy đàn “Hồ cầm” ở mọi hoàn cảnh.

Tuy nhiên Truyện Kiều của Nguyễn Du đã cho Thúy Kiều còn giỏi chơi đàn Nguyệt cầm (cầm trăng, cầm nguyệt) là đàn có bốn dây, dùng ngón tay bấm phím và gảy dây như các câu, c.467: Hiên sau treo sẵn cầm trăng; c.640: Ép cung cầm nguyệt, thử bài quạt thơ; c.472: Bốn dây to nhỏ theo vần cung thương;  c.2570: Bốn dây nhỏ máu năm đầu ngón tay. C.3197: Phím đàn dìu dặt tay tiên. Vậy không thể là đàn Hồ cầm (Tỳ bà) loại cần vĩ kéo dây. Trong Long thành cầm giả ca (龍城琴者歌) Nguyễn Du viết về cô Cầm là người rất giỏi chơi đàn Nguyễn cầm (獨善阮琴), ở bài Tiểu dẫn, Nguyễn Du cho biết, người đó ở trong đội nữ nhạc ở cung vua Lê, là một người rất giỏi chơi đàn Nguyễn Cầm (其人獨以阮琴聲擅場) nổi tiếng ở thành Thăng Long. Như thế, ở thời đại Nguyễn Du, có thể Nguyễn Du đã hiểu Hồ cầm là Tần Tỳ bà tức là Nguyễn cầm hay Nguyệt cầm (Cầm trăng). Lưu ý, cùng thời Nguyễn Du có Phạm Đình Hổ (1768-1839) trong Vũ trung tùy bút, đã nói về một cây đàn nguyệt (gảy dây) đang được ưa chuộng là đàn Hồ cầm đời cổ còn gọi là Nguyễn cầm mà người sáng chế là Nguyễn Hàm đời Tấn còn trong Nhật Dụng Thường Đàm, Phạm Đình Hổ đã cho biết Hồ cầm và Nguyệt cầm là đàn tứ huyền (đàn bốn dây). Cách đây hơn nửa thế kỷ, Trần Văn Khê trong bài viết Kiều đánh cây đàn gì? cũng đã từng nêu giả thuyết: “cái cầm trăng của Kim Trọng và cái hồ cầm của Thúy Kiều có lẽ chỉ là một nhạc khí: cây đàn hình dáng như mặt trăng, gốc gác Trung hoa, tên là nguyệt cầm, hồ cầm hay nguyễn cầm, thứ đàn mà ngày nay ta gọi là đàn sến.

Câu 77: “Sắm xanh nếp tử xe châu

Nếp tử xe châu 攝梓車珠: quan tài bằng gỗ tử và xe tang có rèm hạt châu (dành cho người giàu sang, quý phái). Thường được hiểu là vị khách viễn phương mua quan tài và thuê xe tang chôn cất Đạm Tiên một cách trang trọng, chu đáo (Nguyên truyện cũng viết vậy).

Chúng tôi hiểu khác, ở hai câu trước đó, c.71: Buồng không lạnh ngắt như tờ; c.72: Dấu xe ngựa đã rêu lờ mờ xanh cho thấy Nguyễn Du đã có dụng ý khác Nguyên truyện khi cho người khách viễn phương đã xuất hiện sau khi nàng Đạm Tiên đã được chôn cất khá lâu rồi (buồng không, rêu mờ xanh) và chắc là chôn một cách sơ sài (không áo quan, không xe tang). Vậy lúc đó thi hài đã nằm trong lòng đất rồi cần gì lo sắm áo quan gỗ tử, xe tang rèm hạt châu?

Theo chúng tôi, nên hiểu “nếp tử, xe châu” chỉ là vàng mã bằng giấy mà người viễn khách đã đến mộ Đạm Tiên dùng để đốt viếng an ủi vong linh nàng. Liên hệ đến câu sau c.78: một nắm mặc dầu cỏ hoa, hai chữ 燶 đa số các nhà biên khảo đọc hiểu là vùi nông nhưng nếu vậy càng không hợp tình hợp lý, mâu thuẫn vì nếu đã cho người khách viễn phương vì ái mộ, thương tiếc nàng Đạm Tiên đến độ không tiếc tiền sắm áo quan gỗ tử, xe tang rèm hạt châu nhưng sao lại hờ hững, vô tâm đem “vùi nông một nấm!”

Chúng tôi đọc hiểu khác, bản Nôm Kim Vân Kiều tân truyện do Liễu Văn Đường khắc in năm 1866 đã  khắc chữ có thanh phù bội  bộ thổ (biểu ý về đất, tro bụi) sẽ đọc là BỤI và  燶 thanh phù nông bộ hỏa (biểu ý về lửa, sức nóng) sẽ đọc là NỒNG,  vậy nên đọc là “bụi nồng,” như thế sẽ hợp tình cảnh hơn: Sau khi đốt vàng mã xong sẽ còn lại một 捻 NẮM (chứ không phải là nấm) tro bụi nồng cháy mặc cho cỏ hoa ở gần đấy bị héo rụi đi vì sức nóng. Ý thơ trở nên rất bi thương!

You may also like

Verified by MonsterInsights