TRẦN NHẬT VY
Nghề báo là một nghề nguy hiểm không chỉ trên thế giới mà ngay ở Việt Nam cũng vậy. Từ hàng trăm năm trước, báo chí Việt ngữ đã phải “làm xiếc” giữa hai thế lực “nhà cầm quyền, các thế lực khác” và “người đọc”. Người làm báo luôn muốn nói hết sự thật và người đọc cũng luôn muốn như vậy. Còn nhà cầm quyền cùng các thế lực khác thì chỉ muốn báo chí nói một một nửa hoặc một phần sự thật; lắm khi còn phải ngược lại. Do đó, dù chỉ bất đồng trong cách đưa tin, nhà báo với cây viết trong tay luôn nằm trong tầm ngắm của quyền lực. Viết sai thì bị pháp luật rờ gáy; viết đúng thì chỉ được tiếng vỗ tay của dân chúng, người đọc; còn viết quá đúng, quá thật thì có thể đưa đến cái chết! Không chỉ vậy, nhà báo chỉ cần nghiêng hay đứng về một phía là đã có thể trở thành tấm bia của xã hội, của thế lực nào đó! Chính vì vậy trong lịch sử báo chí Sài Gòn có không ít nhà báo bị ám sát. Dĩ nhiên có rất nhiều lý do đưa đến cái chết của họ nhưng dù lý do gì thì họ cũng là nhà báo, cũng là người đưa tin cho công chúng.
Trong loạt bài nhỏ này, qua thu thập tài liệu từ nhiều nguồn, chúng tôi giới thiệu một số nhà báo ở Sài Gòn bị ám sát chết vì nhiều lý do, khiến dư luận rộn ràng một thời. Cho tới nay cái chết của họ vẫn chưa rõ ràng và chưa có ai nhận trách nhiệm. Đó là các nhà báo Nguyễn Văn Sâm, Nam Quốc Cang, De Lachevrotière…Họ chết ngay lập tức và nội vụ, nói theo cách của nhà chức trách thời bấy giờ, “vẫn còn trong vòng điều tra”.
Minh Sơn Nguyễn Văn Sâm (1895-1947)
Xin các bạn đừng lầm nhà báo Minh Sơn Nguyễn Văn Sâm với giáo sư Nguyễn Văn Sâm, một chuyên gia về Hán-Nôm, hiện đang sống ở vùng Bakersfield, CA.
Sẽ có bạn đọc hỏi “Có phải ông Sâm này từng là Khâm sai đại thần Nam Kỳ của chính phủ Bảo Đại không?”. Xin thưa là đúng như vậy.
Ông Sâm Khâm sai thì nhiều người biết và nhiều sách sử đã ghi nhưng ông Sâm “nhà báo” thì rất ít người biết, ngay cả người trong nghề báo.

Ông Sâm nhà báo có bút danh là Minh Sơn, Đằng Giang, sinh năm 1895 tại làng Mỹ Tú, tổng Thạnh Lợi tỉnh Sóc Trăng, với tên thật là Dương Minh Sơn. Khi thi đậu bằng sơ học [tốt nghiệp tiểu học] thì ông chưa đủ tuổi để thi vào trường college Mỹ Tho [nay là Nguyễn Đình Chiểu]. Vì vậy ông phải mượn khai sinh của người anh cô cậu lớn hơn 2 tuổi tên Nguyễn Văn Sâm để đi thi và được học bổng của chính phủ. Từ đó cho tới khi qua đời ông mang luôn cái tên Nguyễn Văn Sâm.
Nhà ông không giàu nhưng cũng không đến đỗi nghèo. Thời buổi nào cũng vậy, người nghèo khó có thể đi học cho tới nơi tới chốn. Sau khi tốt nghiệp trường Mỹ Tho, ông Sâm thi đậu vô trường École Polytechnique ở Hà Nội. Sau đó ông tốt nghiệp Agent technique chuyên môn về cầu cống hồi đó được gọi là “kỹ sư cầu cống lô canh” hoặc nghề “lục lộ”.
Năm 24 tuổi ông Sâm trở về Sài Gòn làm việc ở Sở Trường Tiền [một tên gọi khác của Sở Công chánh Nam kỳ], Sài Gòn [nay là Sở Giao thông vận tải, trụ sở ở đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa] dưới quyền kỹ sư Lưu Văn Lang. Ông Lang thuở ấy là kỹ sư công chánh người Việt đầu tiên của Việt Nam rất được người Pháp nể vì. Ông từng tham gia việc thiết kế chiếc cầu xe lửa nối liền Đông Dương với tỉnh Vân Nam nổi tiếng, hiện nay vẫn còn được sử dụng. Ông rất nổi tiếng và được tôn xưng là “bác vật Lang”. Chính sự làm việc gần gũi này đã thay đổi vận mạng của ông Nguyễn Văn Sâm. Nếu ông Sâm làm việc dưới quyền của người khác, một người Pháp chẳng hạn, có lẽ “sự nghiệp cầu cống” của ông sẽ cứ vậy mà đi tới và sẽ không có một ông nhà báo Nguyễn Văn Sâm.
Làm việc gần gũi, ông Sâm lọt vào mắt xanh của ông Lang. Ông Lang nhận thấy đây là một thanh niên có nhiều triển vọng, học hành giỏi, tánh tình lại dễ thương nên mới giúp đỡ. Ông Lang quen biết với nhiều người, trong số đó ông Trương Văn Bền, Hội viên hội đồng quản hạt, một nhà kỹ nghệ, chủ hãng xà bông Việt Nam còn gọi là xà bông Cô Ba, có người em gái thứ bảy, bà Trương Thị Cường, đến tuổi cập kê còn đang kén rể.
Ông Lang giới thiệu đệ tử của mình với ông Bền. Và lời giới thiệu của ông Lang có lẽ rất ngon lành cộng với uy tín của ông, nên ông Bền gật đầu cái rụp, miễn bàn cãi. Vậy là ông Sâm trở thành em rể của một đại gia ở Sài Gòn – Chợ Lớn, người được nhà khảo cứu Vương Hồng Sển nhận xét là “hàng tỷ phú”, và cũng vì vậy mà con đường tiến thân của ông chuyển hướng, nổi tiếng hơn nhưng cũng đầy chông gai và đau đớn hơn. Bởi ông Bền là người “mê” làm chính trị và kinh tế chứ không muốn sống một nếp sống “bằng phẳng” để rồi chết trên đống tiền! Nói như nhà thơ Xuân Diệu là “thà một phút huy hoàng rồi chợt tắt/ Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm”.
Sau khi trở thành em rể của ông Bền, ông Sâm tiếp tục đi học thêm và có được bằng “kỹ sư cầu cống” chính thức vào năm 1927. Với tấm bằng kỹ sư, với gia đình vợ có tiếng tăm bề thế về cả thế lực lẫn tiền bạc, không lẽ phải đi làm công ăn lương hoài, nên ông Sâm xin nghỉ việc (có bồi thường tiền học bổng) để ra làm thầu khoán chuyên về cầu cống.
Thời kỳ này, chính phủ Đông Dương đang đẩy mạnh việc hoàn tất nhiều con đường trong xứ, kể cả đường xe lửa, làm thầu khoán cầu cống mà trúng thầu một cái là… giàu nứt vách chẳng mấy hồi! Đã có tấm gương ngay trước mắt, là ông Trần Quang An, bạn ông Sâm, cháu của Trần Chánh Chiếu, chỉ thầu được một đoạn đường hầm xe lửa ở Tuy Hòa đã trở thành triệu phú. Nhưng đời giàu nghèo đều có “số”. Ông An làm thì thành triệu phú, còn ông Sâm làm thì ọp ẹp riết, không trúng được thầu nào ngon lành hết.
Thấy chí hướng của em rể “hạp” với mình, ông Bền liền đưa ông Sâm vào đảng Lập Hiến để lấy thanh thế làm ăn. Lúc ấy, đảng Lập Hiến lo xa tới cuộc tranh cử những năm 1935-1939, nên cho ra đời hai tờ báo. Một tờ tiếng Pháp là Tribune Indochinoise do Bùi Quang Chiêu làm chủ nhiệm, Nguyễn Phú Khai làm chủ bút, tổng lý là ông Nguyễn Kim Đính và tờ Đuốc Nhà Nam tiếng Việt do Nguyễn Phan Long làm chủ nhiệm, chủ bút thì giao cho ông Quán Chi Đào Trinh Nhất và ông Nguyễn Văn Sâm làm quản lý nắm túi tiền của tờ báo từ năm 1928.
Thế là ông Sâm trở thành ký giả! Và cũng từ đó ông quên luôn con đường dự định trước đó là làm thầu khoán để làm giàu!
Ngày xưa chức vụ thiết thực, trách nhiệm lắm! Chủ nhiệm một tờ báo là chức trách chịu mọi trách nhiệm của tờ báo trước pháp luật, ra hầu tòa là chuyện… bình thường! Còn chủ bút thì chịu trách nhiệm về nội dung còn có nghĩa là “nếu tờ báo bị thiếu bài” thì chủ bút phải è cổ mà viết chớ đâu có phóng viên thường trực như bây giờ mà hò hét kiếm bài để đắp vô trám chỗ. Còn quản lý thì lo tiền bạc, lo in ấn, bán báo thu tiền, quảng cáo…
Hai tờ báo này sống được đều do đảng viên đảng Lập hiến góp tiền, người ít kẻ nhiều. Đặc biệt, các đảng viên nào giành phần ra tranh cử Hội đồng quản hạt sắp tới thì góp nhiều hơn người khác. Và ông Trương Văn Bền là người góp nhiều hơn hết, kể cả phần của hai người em là Trương Văn Cầm, em ruột, và Nguyễn Văn Sâm, em rể, để nhắm luôn các ghế Hội đồng thành phố ở Sài Gòn-Chợ Lớn.
Nhờ có hai tờ báo cổ động nên hai em của ông Trương Văn Bền đắc cử dễ dàng và Hội đồng thành phố Chợ Lớn. Và khi trở thành ông “Hội đồng thành phố Chợ Lớn” thì ông Sâm bắt đầu quen mùi chính trị với loạt bài xã thuyết viết trên tờ Đuốc Nhà Nam với bút hiệu Minh Sơn. Tới năm 1935, ông Sâm đắc cử vào Hội đồng quản hạt chung Sổ với ông Trần Văn Khá, Nguyễn Đăng Liêng. Cũng từ sau cuộc bầu cử Hội đồng quản khóa này, nội bộ đảng Lập hiến bắt đầu lủng củng mà nguyên do cũng vì sự xích mích giữa hai ông “trùm” Bùi Quang Chiêu và Nguyễn Phan Long. Mặt khác, trong cuộc bầu cử Hội đồng này, do có một số nhóm không đắc cử nên… không ủng hộ cho đảng tiền bạc nữa. Trong lúc đó thì kinh tế thế giới bị khủng hoảng đã lan tới Nam Kỳ, nên nhiều tay nhà giàu có tiền của trong đảng cũng “bỏ chạy” thủ thân chứ không ham hố con đường chính trị “tốn kém” nữa.
Ông Trương Văn Bền là cái vú sữa của đảng này, nay thấy nội bộ như vậy cũng nản nên cũng rút dù về tập trung chuyên môn là sản xuất savon Việt Nam.
Báo tuy không lỗ nhưng mất nguồn tài trợ tiền bạc thì… Nhất là tờ Đuốc Nhà Nam đang đứng tên ông Nguyễn Phan Long cũng muốn rút đi nên tuyên bố với các đảng viên “Ai mà trả nợ nhà in cho tờ Đuốc Nhà Nam thì ông sẵn sàng sang tên cho”.
Được lời như cởi tấm lòng, ông Bền liền ra tiền sang lại tờ báo và giao cho thằng em rể Nguyễn Văn Sâm làm chủ nhiệm. Từ lâu, ông Bền muốn có riêng một tờ báo để quảng bá chuyện làm ăn và để làm chiếc thang leo lên cao hơn trên đường chính trị. Song dù có tiền nhưng ông “ngại” thiên hạ chê mình “dốt” mà bày đặt và việc xin phép ra tờ báo cũng lắm nhiêu khê nên chỉ góp tiền cho báo chớ chưa dám. Nay có ông Sâm, vừa trẻ, giỏi lại làm quản lý báo mấy năm rồi, nên ông mạnh tay chi tiền. Và ngày 4/9/1935, tên ông Nguyễn Văn Sâm trên măng sét Đuốc Nhà Nam là chủ nhiệm kiêm quản lý, còn Nguyễn Phan Long thì đi vào dĩ vãng. Nắm tờ báo trong tay, dưới sự giựt dây của ông Trương Văn Bền, ông Sâm mạnh dạn ủng hộ nhóm Hội đồng quản hạt trẻ là nhóm các ông Trần Văn Khá, Nguyễn Đăng Liêng.
Trong nhóm này, chính khách trẻ Trần Văn Khá đang sáng chói, vốn có gốc ở hãng rượu Bình Tây và được chính quyền nâng niu. Ông Khá cũng là người sáng lập và đang nắm chức chủ tịch Hội bóng tròn Việt Nam có tên là Tổng cuộc CIA (Commission Interclub Annamite), có rất nhiều quần chúng ủng hộ.
Điều không may cho ông Sâm là khi ông nắm chức chủ nhiệm tờ báo thì Bộ biên tập nhất là chủ bút Đào Trinh Nhất rút lui. Ông Nhất là một tay làm báo lão luyện, người đã đưa tờ Đuốc Nhà Nam lên mây xanh với cả nội dung lẫn hình thức. Thiếu ông Nhất, nội dung tờ báo xuống thấy rõ. Đã vậy, đúng vào cái lúc “cần” nhất ấy bà Sâm lại ngã bệnh rồi qua đời khiến chỗ dựa quan trọng về tiền bạc của ông Sâm cũng bị hổng chân. Vì sau khi bà Sâm mất lại không có con, gia đình ông Bền không còn gần gũi ông Sâm nữa mà coi ông như người ngoài.
Lần lần quan hệ giữa ông và ông Khá, hay nói cho đúng là việc ủng hộ phong trào đá banh, không còn ngon nữa. Để rồi sau đó hai bên chia tay luôn. Tờ báo từ đó èo uột không biết lúc nào thì…đem chôn!
(còn tiếp)
