NGUYỄN ĐỨC CƯỜNG, L.Ac., Ph.D
Dẫn nhập
Hạt Bạch quả, dù không có nguồn gốc từ Việt Nam, nhưng lại không xa lạ gì với nhiều người trong chúng ta, qua những loại chè nấu chung với loại hạt này như chè bạch quả nhãn nhục, chè bạch quả khoai môn, chè bạch quả đu đủ… loại nào cũng thơm ngon và hấp dẫn, và đều có tác dụng giải nhiệt, giúp thư giãn tinh thần, ngủ ngon và tăng cường sinh lực.
Trong khi đó, cây Bạch quả là một trong số ít hiếm hoi thực vật có tuổi thọ rất cao, nhiều cây đạt đến hơn 1,000 năm tuổi và hơn thế nữa. Cụ thể là tại Trung quốc, người ta ghi nhận được một cây Bạch quả có tuổi thọ 1,400 năm bên cạnh ngôi chùa tên là Quan Âm Cốc (Gu Guanyin). Bất chấp sự khắc nghiệt của khí hậu và thời gian, cây này vẫn còn rất tươi tốt đến hôm nay. Vào mỗi mùa Thu, cây tạo nên một thảm lá vàng thật dày và rộng lớn, khiến cho khung cảnh chung quanh trở nên vô cùng rực rỡ…
Cho đến nay, không ai trong chúng ta mà không nhớ đến một sự kiện lịch sử rất quan trọng, đã kết thúc chiến tranh thế giới lần thứ II. Đó là việc hai quả bom nguyên tử thả xuống hai hòn đảo Hiroshima và Nagasaki Nhật Bản ngày 6/8/1945, đã hủy diệt gần như hoàn toàn sự sống nơi đây. Những ai may mắn sống sót cũng phải chịu nhiều di chứng do phóng xạ gây ra kéo dài nhiều thế hệ sau đó. Tất nhiên, các loài thực vật cũng cùng chung số phận, sức nóng hủy diệt kinh hoàng của bom nguyên tử khiến cho tất cả các loài thảo mộc trên hòn đảo Hiroshima nám đen và cháy rụi. Duy chỉ có sáu cây bạch quả, một thời gian sau lại xanh tươi trở lại bình thường và tồn tại mãi cho đến hôm nay, hoa trái vẫn nẩy sinh mà không hề có một sự biến dạng hay ảnh hưởng nào do phóng xạ. Cũng cần nói thêm là sáu cây bạch quả này mọc khá gần nơi quả bom nguyên tử được thả xuống, chỉ cách hơn một cây số. Từ đó, loại cây này được mệnh danh là “bearer of hope,” tạm dịch là loài cây “mang niềm hy vọng.”
Nguồn gốc
Cây bạch quả, tên khoa học là Ginkgo Biloba, còn gọi là “ngân hạnh,” có nguồn gốc từ Trung Hoa. Bạch quả thường được gọi tắt là Ginkgo hoặc là Gingko. Đôi lúc còn được gọi là Maidenhair tree, tạm dịch là cây tóc thiếu nữ, do có tàng lá rất đẹp, ngày càng lớn rộng theo tuổi đời của cây.
Dựa vào những mẩu vật hóa thạch mà các nhà khảo cổ tìm thấy được, người ta cho rằng loại cây này đã xuất hiện trên mặt đất cách đây 270 triệu năm. Cây bạch quả đã có mặt ở Trung Hoa từ rất lâu, nhưng chỉ thấy ở vài nơi như tỉnh Hồ Bắc, Tứ Xuyên, Hà Nam, Sơn Đông, Hồ Bắc, khu bảo tồn Thiên Mẫu Sơn thuộc tỉnh Chiết Giang. Nơi đây, cây bạch quả được các nhà sư Trung Hoa ở chùa Quan Âm Cốc chăm sóc cẩn thận…
Mãi đến đầu thế kỷ 18, người Âu châu mới chú trọng đến cây bạch quả vì dáng vẻ cũng như màu lá rất đẹp. Người đầu tiên biết đến loại cây này là một nhà thực vật học người Đức tên là Engelbert Kaempfer vào cuối thế kỷ thứ 17 (năm 1690), khi ông đến thăm khu vườn của một ngôi chùa tại Nhật Bản. Cho đến năm 1727, bạch quả mới được trồng tại các khu vườn thực vật nhiệt đới tại nhiều thành phố Âu Châu. Đến năm 1995, Việt Nam đã nhập cảng hạt bạch quả từ Nhật Bản và Pháp về trồng ở Sapa, nhưng có lẽ do khí hậu và phong thổ không thích hợp nên cây ở đây phát triển rất chậm.
Cây bạch quả có mặt tại Hoa Kỳ vào năm 1784, tại Philadelphia, tiểu bang Pennsylvania, được ông Hamilton là người đầu tiên trồng tại sân nhà mình, đến nay đã hơn 230 tuổi. Kể từ ngày đó đến nay, nhiều người Mỹ cũng bắt chước theo, thậm chí nhiều thành phố khác đã xem việc trồng cây bạch quả là một trong những kế hoạch làm đẹp đường phố. Tại một vài nơi khác như tiểu bang South Carolina, người ta cũng đã trồng loại cây này để cung cấp lá cho các nhà bào chế các sản phẩm dược thảo.
Tại Trung Hoa, bạch quả đã được sử dụng như một dược thảo quan trọng vào cuối thế kỷ thứ 15. Cho đến 500 năm sau, tức là vào năm 1965 tại nước Đức, tinh chất bạch quả mới được nghiên cứu và đưa vào danh sách dược vị. Pháp và các quốc gia Âu châu khác cũng vậy. Không những thế, tại Mexico, Brazil, Argentina, các quốc gia miền Trung và Nam Mỹ, tinh chất bạch quả cũng được sử dụng vào việc điều trị.
![](https://i0.wp.com/www.toiyeutiengnuoctoi.com/wp-content/uploads/2025/02/Bach-qua-1.jpg?resize=648%2C378&ssl=1)
Bạch quả trong nhãn quan Đông y
Theo nhận xét của Đông y, bạch quả có vị ngọt, hơi đắng, tính bình, có độc tính nhẹ. Tác dụng trực tiếp vào tâm, phế và thận. Có khả năng làm giảm các triệu chứng bệnh suyễn khá hữu hiệu, chống ho, hạ đàm, giảm chứng tiểu đêm, hoặc đi tiểu nhiều lần trong ngày, trị chứng tiểu đêm trên giường của trẻ em. Làm giảm đáng kể bệnh huyết trắng của phụ nữ và bệnh di tinh của phái nam. Ngoài ra, bạch quả còn có khả năng gia tăng sự lưu thông của máu trong động mạch và tĩnh mạch, đặc biệt là các động mạch não.
Theo các tài liệu y học cổ truyền, ngay từ thế kỷ thứ 15, người Trung Hoa đã biết sử dụng bạch quả vào việc điều trị các chứng bệnh thuộc về phổi như bệnh suyễn, bệnh viêm phổi và viêm cuống phổi, các loại bệnh thuộc về hệ tiêu hóa như tiêu chảy, đầy bụng…
Bạch quả thường được kết hợp với các dược thảo khác nhằm gia tăng tác dụng điều trị. Người Nhật dùng bạch quả để trị các bệnh liên quan đến đường hô hấp như bệnh suyễn, ho mãn tính, ho có đờm, suy giảm hô hấp…, giúp máu lưu thông tốt đẹp hơn. Một đặc điểm khác của hạt bạch quả là khả năng xua đuổi các loài sâu bọ, thậm chí có thể giết được những loại này. Người Nhật bản ứng dụng đặc điểm này vào việc bảo trì sách vở, bằng cách đặt hạt bạch quả trên các kệ sách. Vì vỏ ngoài của hạt có nhiều hóa chất thiên nhiên có tác dụng xua đuổi các loài sâu bọ và mối mọt phá hoại sách vở. Nhưng cũng vì thế mà hạt chưa lột vỏ cũng gây dị ứng, nhất là những ai có làn da nhạy cảm.
Trong khi đó, lá bạch quả lại có tác dụng chống lại bệnh suyễn, kích thích sự lưu thông của máu, giảm đau, nhất là những cơn đau thắt, đau nhói vùng tim do nghẽn động mạch vành, giúp cho máu lưu thông tốt hơn trong não bộ. Những ứng dụng trị liệu này đã có từ rất lâu, ví dụ như bệnh suyễn có đờm hay không có đàm chẳng hạn, trong các tài liệu Y học cổ, còn ghi lại những công thức kết hợp lá hoặc hạt bạch quả với các dược thảo khác.
Bạch quả có công năng trị chứng huyết trắng của phái nữ, và chứng suy thận, cụ thể là di tinh của phái nam. Trị bệnh tiêu chảy của trẻ em, bệnh nhức đầu kinh niên. Khi được kết hợp với các dược thảo khác, các công năng trên còn gia tăng gấp bội. Bạch quả không có khả năng hạ huyết áp như một số người thường nghĩ, nhưng nếu được phối hợp với các dược thảo khác, thì có thể góp phần vào việc điều hòa huyết áp.
![](https://i0.wp.com/www.toiyeutiengnuoctoi.com/wp-content/uploads/2025/02/Bach-qua-2.jpg?resize=575%2C446&ssl=1)
Bạch quả trong nhãn quan Tây y
Theo phân tích của phòng xét nghiệm, hạt bạch quả hàm chứa nhiều hóa chất thiên nhiên ích lợi cho sức khỏe, cụ thể là nhân của hạt có trên 5% protein, gần 70% tinh bột, 6% đường thiên nhiên và một ít chất béo. Vỏ của hạt có Ginkgolic acid và một vài hóa chất khác, và lá chứa các nhóm hóa chất tên là flavonoid và tecpen, cùng một số acid amine, và một số các khoáng chất và kim loại cần thiết cho cơ thể như calci, magnesium, copper, zinc… Tuy nhiên, bên cạnh các dưỡng chất trên, bạch quả còn có một hóa chất mang độc tính tên là Ginkgotin. Đó là lý do khiến chúng ta không nên ăn quá nhiều hạt bạch quả, hoặc ăn liên tiếp nhiều ngày, nhất là hạt còn sống.
Một trong những nhận định rất quan trọng của Tây y về bạch quả không khác cách nhìn của Đông y, đó là khả năng gia tăng sự tuần hoàn của máu trong não bộ, và tại các động mạch ngoại biên, giảm chóng mặt và ù tai…
Ngoài ra, bạch quả còn có khả năng chống lão hóa khá mạnh. Một số thí nghiệm trên loài chuột, và mèo đều cho thấy bạch quả duy trì sự lưu thông của máu trên não, làm giảm nguy cơ tắc nghẽn gây tai biến mạch máu não, chống lại chứng phù não do độc tố hay do chấn thương. Và như vậy, một cách trực tiếp, bạch quả có thể ngăn ngừa, và chống lại chứng não suy (biểu hiện của não suy là kém trí nhớ, thiếu khả năng tập trung, mất ý chí và hay mệt mỏi, bi quan và lo lắng, đồng thời thể lực suy giảm).
Về tác dụng ngăn ngừa bệnh alzheimer, có nhiều ý kiến trái ngược nhau. Nhiều người cho rằng sau một thời gian uống dược thảo bạch quả, trí nhớ và khả năng nhận thức được tăng lên, có thể giúp đề phòng bệnh alzheimer, tức là bệnh mất trí nhớ, và bệnh tâm thần phân liệt. Tuy nhiên, cho đến nay, chúng ta vẫn chưa có các bằng chứng khoa học về việc này.
Trong khi đó thì tại đại học Virginia, Charlottesville Hoa Kỳ, giáo sư Steven DeKosky đã dẫn đầu một cuộc khảo cứu trên hơn 3,000 người. Ông cho mỗi người, mỗi ngày uống hai viên dược thảo bạch quả, mỗi viên 120 mg trong một thời gian. Sau đó, ông và các nhà khoa học khác không ghi nhận được thay đổi nào đáng kể. Giáo sư DeKosky còn lưu ý là không nên dùng bạch quả quá lâu hoặc uống ở liều quá cao, vì có thể có những phản ứng độc tố bất lợi cho cơ thể. Liều lượng an toàn cho mọi người khi dùng dược thảo bạch quả là một viên 120mg/ngày. Theo các chuyên gia y tế, những ai có nguy cơ cao về tai biến mạch máu não thì nên dùng 120mg Ginkgo Biloba mỗi ngày, đó là cách ngăn ngừa tốt nhất căn bệnh trên.
Vài lưu ý quan trọng
-Trẻ em khi ăn chè bạch quả, không nên ăn quá năm hạt mỗi ngày, và không nên ăn liên tiếp nhiều ngày. Phụ nữ đang thai nghén cũng không nên ăn bạch quả.
-Những ai đang uống các loại biệt dược chống đông máu như Warfarin, Aspirin, nên tránh ăn bạch quả vì có thể gây xuất huyết, do tác dụng chống đông máu quá mạnh. Triệu chứng trúng độc có thể là nôn mửa, đau bụng tiêu chảy, phát sốt, co giật, suy hô hấp, thậm chí hôn mê. Khi có những triệu chứng này, chúng ta cần dừng ngay việc sử dụng bạch quả và gặp bác sĩ càng sớm càng tốt.-Khi nấu chè, nếu dùng hạt bạch quả trong hộp thì không sao, nhưng khi dùng hạt tươi, chúng ta cần phải lấy đi phần vỏ trước khi nấu. Vì vỏ chứa một thành phần hóa chất thiên nhiên tên là Ginkgo Flavone, và nhiều loại hóa chất khác gây rộp và các dị ứng da khác đặc biệt với những ai có làn da nhạy cảm. Do đó, khi lột vỏ hạt bạch quả, chúng ta cần đeo găng tay làm bếp loại có thể bỏ đi sau một lần sử dụng, để bảo vệ làn da.
Cùng một tác giả:
https://www.toiyeutiengnuoctoi.com/tra-xanh-green-tea-va-suc-khoe/