TRẦN HỮU NGƯ
Anh từ giã những chiều mưa biên giới từ 2018, đến hôm nay 2025 là bảy năm và “Lòng trần còn tơ vương khánh tướng/Thì đường trần mưa bay gió cuốn…” ca khúc Chiều Mưa Biên giới viết ở biên giới Việt-Miên-Lào năm 1960 đã được 68 năm!
Thời Ngô Đình Diệm nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông là một quân nhân, bị trọng cấm vì ca khúc “Chiều mưa biên giới.” Dù bị cấm hát ở nước nhà, nhưng Trần Văn Trạch đem “Chiều mưa biên giới” đi hát tại Pháp, đã được hoan nghênh. Đây là bản nhạc miền Nam đầu tiên đem chuông đi đánh xứ người?
“Chiều nay thấy hoa cười chợt nhớ một người…”
Đó là câu mở đầu ca khúc “Nhớ một chiều Xuân” của Nguyễn Văn Đông.
Ai thấy hoa cười và ai nhớ ai?
Bài hát được xuất bản năm 1962 này đã được ca sĩ Lệ Thanh trình bày lần đầu tiên cũng trong năm 1962 trên Đài Phát thanh Saigon. Và đã được lấy làm tựa đề và đệm nhạc trong vở bi-trường-kịch “Nhớ một chiều Xuân” do ban kịch Kim Cương trình diễn ở rạp Thủ Đô năm Tết Nhâm Dần 1962.
Bài được viết với giai điệu Slow-Tango Gamme Ré Trưởng:
“… Chiều nay thấy hoa cười chợt nhớ một người
Chạnh lòng tôi khơi bao niềm nhớ
Người ơi nơi xa xăm phương trời ấy
Người còn buồn, còn thương, còn nhớ?
Nắng phai rồi em ơi!
Chiều Xuân có một người ngơ ngác đi tìm
Một tình thương nơi phương trời cũ
Chiều nay hoa Xuân bay nhiều quá
Chiều tàn dần phai trên ngàn lá
Tìm đâu bóng hình ai.
Người về còn nhớ khúc hát:
“Người yêu dấu bên bờ thành Vienne”
Lòng này còn luyến tiếc mãi
Đêm Xuân dài mà đâu có hay
Chiều nay có một loài hoa vỡ bên trời
Đợi mùa Xuân sang tô màu nhớ
Dừng chân trông hoa Xuân hồng thắm
Buồn tìm về tình ai đằm thắm
Giờ vun vút trời mây…”
Có một lần, nhân mùa Xuân, đến chơi với anh, tôi hỏi:
-Thưa anh, “Chiều nay thấy hoa cười chợt nhớ một người”… (trong nhạc phẩm Nhớ một chiều Xuân), anh nhớ ai vậy anh?
Nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông:
-… “Câu hỏi này làm tôi nhớ những kỷ niệm cách đây gần 50 năm… Đó là thời gian từ năm 1957, tôi được đi tu nghiệp khóa Tham mưu Chỉ huy ở quần đảo Hawaii, nơi có thành phố Honolulu thơ mộng và bãi biển Wakiki nổi tiếng thế giới.
Những ngày nghỉ tôi ra chơi ở bãi biển, tôi làm quen với một cô gái địa phương có tên là Gina, cô có một vẻ đẹp khác thường làm tôi để ý, sau này hỏi ra mới biết nàng mang hai dòng máu Indo-Franco. Cô gái này có một kiosque bán đồ lưu niệm trên bờ biển, khách du lịch tắm biển ghé mua những vỏ sò trang trí làm đèn ngủ hay chậu san hô kết đèn chớp tắt.
Những ngày tiếp theo, khi nào ra bãi biển tôi cũng mang theo cây đàn Hạ-uy-di đến quán đàn cho cô nghe. Gina thích nhất bài “A beautiful Vienna,” tạm dịch “Người đẹp thành Viên.” Cô phải lòng và đưa tôi về nhà ra mắt bố mẹ. Tôi hứa, khi tốt nghiệp trở về nước, tôi sẽ quay lại rước cô về làm dâu nước Việt. Nhưng, (anh thoáng buồn) “Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên!”. Định mệnh! (Anh hỏi tôi, định mệnh, em có tin không? Tôi trả lời rằng: Tin, nhất là trong tình yêu…).
Mùa Xuân năm sau, từ nơi quê nhà nhớ về chốn cũ có người con gái ngóng trông, tôi chạnh lòng ghi lại nỗi niềm trong bài tình ca “Nhớ một chiều Xuân…”
Bài hát nghe như có lượn sóng nhấp nhô tràn vào bờ cát trắng Wakiki, do tôi đánh chập Arpeze, vuốt đàn Hạ-uy-di tạo ra dáng vẻ lớp sóng đùn đẩy nhau cùng lời chào aloha mang âm điệu địa phương lưu luyến bước chân du khách.
Mỗi lần nghe Lệ Thanh ca “Nhớ một chiều Xuân,” biết bao kỷ niệm vui buồn hiện về trong tôi, và ngay trong giờ phút này, không biết Gina còn sống hay đã chết, nếu còn, chắc cũng già lắm rồi…”
Nhắc lại một chuyện cũ:
… Sáng 30/4/2016, tôi lại đến thăm nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông. Tháng Tư này là đúng 41 năm và sau tháng Tư năm 1975 anh đã mất mười năm “đi làm người tử tế” như bao sĩ quan khác. Tôi đến thăm anh nhiều lần và muốn phỏng vấn anh, nhưng lần nào cũng bị anh từ chối. Được biết, không phải anh anh từ chối riêng một mình tôi, mà anh đã từ chối rất nhiều nhà báo, kể cả những chương trình trực tiếp ghi hình ở hải ngoại.
Anh nói rằng, từ chối trả lời những cuộc phỏng vấn ấy anh mất cả tinh thần lẫn vật chất, nhưng biết làm sao hơn vì mình là người “của muôn năm cũ.” Nghĩ lại, cuộc đời này dẫu sao cũng còn nhiều người tốt, vì tốt nên anh em mình vẫn còn sống đến ngày nay (anh cười)!
Chúng ta là những con chim đã một lần trúng đạn nên rất sợ cành cong, và cho dù thời gian có làm lành vết thương, nhưng tiếc rằng chúng ta không còn trẻ nữa.
Lần này, đúng vào dịp 30/4, tôi nhắc lại chuyện cũ và nuốn phỏng vấn anh.
Anh nhìn tôi và nói không do dự:
-Đồng ý!
Nghe anh đồng ý, tôi nhạc nhiên.
Nhưng anh cười:
-Đây là cuộc phỏng vấn đầu tiên, và anh dành nó cho em, vì em hiểu nhạc anh và em cũng đã thấm thía những tháng năm “làm người tử tế” sau 1975.
Đặc biệt, anh từ chối tất cả, nhưng chỉ dành cho em, vì em là một “nhà báo không có báo…”
Anh Đông ơi, những chiều sắp Tết, em cũng “Chiều nay thấy hoa cười chợt nhớ một người!”
(Gia Định 06.01.2025)
———————-
Nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông
(1932-2018)
Nguyễn Văn Đông sinh ngày 15 tháng Ba năm 1932 tại quận Nhất, Sài Gòn, nguyên quán ở làng Lợi Thuận, tổng Mỹ Ninh, quận Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh, Nam Kỳ, Việt Nam.
Ông sinh trưởng trong một gia đình nguyên là một điền chủ lớn có nhiều ruộng đất ở tỉnh này. Thuở nhỏ, nhờ gia đình khá giả nên ông học tại tư gia dưới sự hướng dẫn của thầy. Sau đó ông theo học bậc Trung học tại trường Huỳnh Khương Ninh ở khu Đa Kao, quận Nhất. Khoảng 1945-1946, trường này bị đóng cửa. Gia sản bị tịch biên để sung vào quỹ kháng chiến chống Pháp; cha mẹ bị bắt tù vì là điền chủ.
Thời đó có viên Đại úy Pháp là Vieux từng coi ông như nghĩa đệ đã nhận ông làm dưỡng tử và gửi vào học ở Trường Thiếu sinh quân Đông Dương (École d’enfants de troupe) ở Vũng Tàu khi ông 14 tuổi. Năm 19 tuổi, ông tốt nghiệp trường Thiếu sinh quân và nhận chứng chỉ tốt nghiệp tương đương với văn bằng Tú tài bán phần tức Tú tài I).
Thời gian học tại Trường Thiếu sinh quân Đông Dương, Nguyễn Văn Đông được học nhạc với các giảng viên âm nhạc Học viện Âm nhạc Paris sang giảng dạy. Năm 15 tuổi, ông trở thành thành viên của ban quân nhạc thiếu sinh quân, học cách sử dụng nhiều loại nhạc cụ khác nhau. Năm 16 tuổi, ông đã có những sáng tác đầu tay như “Thiếu sinh quân hành khúc,” “Tạm biệt mùa Hè”… chơi được các loại nhạc cụ như kèn trumpet, clairon, trống, chập chả, mandoline, Hạ Uy Cầm… Từ cuối thập niên 1950 ông là Trưởng Đoàn văn nghệ Vì Dân với nhiều nghệ sĩ nổi tiếng.
Vào khoảng tháng Mười Một năm 1961, lần lượt bốn bài hát của ông bị Bộ Thông tin Đệ nhất Cộng hòa cấm phổ biến với lý do gây bất lợi cho chiến cuộc, gồm “Chiều mưa biên giới,” “Phiên gác đêm Xuân,” “Mấy dặm sơn khê,” và “Nhớ một chiều Xuân.” Cùng thời gian này hai bản “Cuốn theo chiều gió” và “Bến đò biên giới” cũng bị thông báo là không xuất bản nữa. Vì vụ này mà ông bị quân đội phạt 15 ngày trọng cấm và cấm hiện diện trong tất cả sinh hoạt ca nhạc tại địa điểm công cộng, đồng thời đình chỉ thăng hàm trong vòng hai năm kế tiếp.
Với bút danh Đông Phương Tử và Phượng Linh, ông đã viết nhạc nền và đạo diễn cho trên 50 vở tuồng cải lương nổi tiếng ở miền Nam trước năm 1975 như Đoạn tuyệt, Mắt em là bể oan cừu, Mưa rừng, Nửa đời hương phấn, Sân khấu về khuya, Tiếng hạc trong trăng,… và vô số bản tân cổ giao duyên. Ông và soạn giả Viễn Châu đã nghiên cứu lắp ráp tân nhạc-cổ nhạc sao cho ăn khớp nhau. Ông cho ra đời phương pháp ký âm bài nhạc hòa hợp giữa tân nhạc và cổ nhạc bằng một cách thức dễ hiểu, hợp mọi trình độ nhạc lý, hầu giúp nghệ sĩ cổ nhạc mang lên sân khấu hát dễ dàng như bản tân nhạc, nhan đề là Hướng dẫn ca và kỹ thuật sáng tác bài tân cổ giao duyên. Tân cổ giao duyên đã cứu vãn tình thế ế ẩm của các băng dĩa cổ nhạc thuần túy đương thời.
Cùng một tác giả: https://www.toiyeutiengnuoctoi.com/ngoc-cam-nguyen-huu-thiet-cap-song-ca-ben-vung/