ĐẶNG PHÚ PHONG
Tôi không viết chiếc áo tơi mà cái áo tơi là nó có lý của nó.
Nguyên ở quê tôi, một làng nhỏ của Bình Định, cách xa Qui Nhơn hơn 40 cây số. Điện đóm không có mãi cho đến thập niên 60. Ánh sáng văn minh hút bóng, heo hắt, èo uột. Cả làng không có được một chiếc xe “ bịch- bịch” (xe gắn máy) như cái thị trấn kề bên. Dăm ba nhà có được một cái radio là hách lắm rồi. Giao tiếp với văn minh ánh điện rất hạn hẹp nên ngôn ngữ cũng rất nghèo nàn. Chữ “cái” giới từ chỉ giống (gender) được sử dụng trong hầu hết mọi trường họp. Thiếu hẳn bóng dáng chữ “chiếc”. Ngoại trừ một vài trường hợp có vẻ đã thành thông lệ như: chiếc chiếu… Tôi viết cái áo tơi theo cái ý như vậy. Nghèo khổ thành thêm ra nghèo chữ.
Thời đó cái áo mưa là tiếng để chỉ chiếc áo đi mưa làm bằng nylon, dài quá gối, cổ bẻ, có kèm dây thắt lưng và có cả chiếc mũ trùm đầu, trông rất văn minh, rất nhà giàu. Nhưng vì nghèo và nhất là nó không được ấm và rất dễ rách nên cả làng chỉ có một số rất ít sử dụng nó để đi chợ và mấy đứa học trò con nhà giàu.
Còn lại dân trong làng đều dùng áo tơi lá. Áo tơi lá được chằm (may) bằng lá cọ.
Người ta lên rừng cắt lá cọ đem về lựa những lá tốt, lành lặn để sử dụng. Áo tơi rất dễ làm nên bất kỳ ai cũng có thể làm được sau một lần quan sát người khác làm. Họ đóng một cái khung chữ nhật, thường bề ngang 2 mét bề cao 1,5 mét. Trên chiều đứng người ta cột dây mây đã được chuốt, trau kỹ lưỡng và ngâm nước đôi ba ngày cho dai, dẻo. Mỗi đường dây cách nhau khoảng từ năm phân ở phần trên cùng, càng xuống phiá dưới càng cách thưa dần đến khoảng một tấc. Lá cọ trước khi chằm được phơi nắng rồi hứng sương cho lá mềm, dịu và chắc; xong họ gấp đôi lá theo chiều gốc, ngọn, xỏ vào đường dây mây sẵn trên khung. Ở phần trên sẽ là phần cổ áo nên nó được xếp nhặt lại và bện dây mây bao bọc thật kỹ tránh va chạm dễ bị rách. Trên cùng dùng dây mây chuốt nhỏ và mảnh. Phần lá trên cùng được xỏ xuyên suốt một sợi vải mềm để cột lại khi bận (mặc). Thường áo tơi lá chỉ dài đến gối để người nông dân dễ hoạt động.
Áo tơi lá được cái tiện là rất ấm, trời mùa đông, miền Trung mưa dai dẳng suốt ngày đêm, mưa đến thúi đất và lạnh căm căm; làm lụng ngoài đồng ruộng, đi vào rừng đốn cây làm rẫy vào mùa mưa là tiện nhất, nó có thêm một chức năng làm áo ấm nữa. Người chăn vịt, kẻ chăn bò khi gặp mưa như đổ, cứ việc để dựng đứng cái áo tơi, lấy nón lá ụp lên, ngồi thụp trong lòng áo tơi, thế là có được một không gian trú ẩn khá ấm áp. Nó cũng rất tiện dụng để chống cái nắng cháy da cháy thịt trên lưng của người đi cấy- bán mặt cho đất bán lưng cho trời. Nó cũng rất dễ dàng xoay hướng để che chắn những giọt mưa nặng nề, lạnh buốt hắt vào phía trước của người mặc nó.
Chuyện cái áo tơi cũng kỳ. Kỳ là vì nó cũng có giai cấp (?) giàu, nghèo của nó! Nãy giờ tôi trò chuyện với quý bạn chỉ về cái áo tơi của giai cấp nghèo còn cái áo tơi của nhà giàu hay giới quan lại(không có kiệu) là loại áo tơi khác. Cái áo tơi có hai cánh tay đàng hoàng, gọi là áo tơi cánh. Để chằm (may) loại áo tơi này có nhiều công đoạn hơn, rắc rối hơn. Nhà giàu thì phải khác chứ! Đầu tiên người ta chằm một thân sau và hai thân trước rồi chằm hai cánh tay ngắn tới khuỷu tay (dài thì người mặc nó không thể cong tay được). Loại áo này rất ít làm do nó rất khó khăn ở phần ráp nối, tốn công rất nhiều hơn nữa; nó cũng rất bất tiện cho sự cử động, cứ đơ ra như người máy. Dần dần áo tơi cánh biến mất khá lâu trước khi cái áo tơi lá đi vào dĩ vãng.
Áo tơi lá có sức bền đến bốn năm năm là chuyện thường không như chiếc áo mưa nylon chỉ vài năm là rách te rách tét. Và, dĩ nhiên theo tiện nghi của văn minh chúng ta không thể mặc áo tơi lá để cỡi xe gắn máy, để làm việc trong thời đại văn minh này. Áo tơi lá đã đi vào quên lãng. Mãi mãi. Áo tơi trở thành áo mưa. Nhưng chữ áo tơi chưa hết, nó đã chun vào tục ngữ từ thời nó sinh tồn và còn mãi đến bây giờ chính là nhờ cái thế mạnh của ngôn ngữ. đấy là câu nói “ Nghèo rớt mồng tơi” đó các bạn ạ. Vậy mồng tơi là cái gì nhỉ? Có phải là cây rau mồng tơi xanh mướt, xanh dờn dùng để nấu canh với tôm khô ngọt lịm không? Thưa không.
Chuyện nghèo rớt mồng tơi ở đây thì ta phải kết hợp với cái áo tơi vì mồng tơi là một phần của áo tơi đó bạn. Số là, ở phần chung quanh cái cổ của áo tơi người ta muốn nó chắc chắn hơn cả vì nó là phần bị động nhất , va chạm nhiều nhất nên dễ rách nhất. Do đó người ta phải đi nhiều đường chằm gần sát nhau hơn phần dưới của chiếc áo, để chắc chắn hơn và cũng để nó cong lại, ôm được phần bờ vai của con người; thế nên phải vót mây cho nhuyễn, cho nhỏ. Nhưng dễ gì cộng mây mà nhuyễn như sợi chỉ cho cam nên nó không thể nằm sát lớp lá áo ở cổ được. Thế thì đành phải để sợi chỉ mây này nó làm nũng nghĩa là cứ để nó gồ ghề ngang bỉnh một chút; thay vì đường của sợi chỉ mây sẽ cong đều đặn thì thỉnh thoảng nó lại nhọn như đỉnh núi hoặc lõm lòi vì cái đốt chai cứng của sợi mây oan nghiệt nên cả vùng cong này trông sù sì, lộm cộm giống như cái mồng con gà hay con vịt xiêm cục mịch hay là cả cái bông mồng gà xấu xí kia. Rốt cuộc cái chỗ bờ vai của cái áo có tên là cái mồng của áo tơi, rồi gọi tắc thành mồng tơi cho nó khỏe. Mà vì có người nghèo quá, khi cái áo tơi rách, chưa sắm kịp cái áo khác thì cái mồng tơi còn sót lại trên vai cũng rớt nốt đi, thì đúng là ” nghèo rớt mồng tơi” vậy.
Ái chà! Ban đầu tôi chỉ định viết về cái áo tơi nhằm ghi lại cho các bạn thuộc các thế hệ sau biết thêm những cái hiếm hoi đã trôi vào quá khứ nhưng rong ruỗi thế nào mà tôi lại rơi vào vó câu chữ nghĩa, cái phạm trù ngôn ngữ ngữ ngôn phức tạp mồng mồng. Thôi chạm một chút rồi rút chân nhưng cũng kịp giúp các bạn đã lỡ hiểu “ nghèo rớt mồng tơi” là nghèo đến không có lá mồng tơi để nấu canh; hoặc như anh chàng hàng xóm cách cô hàng xòm “cái giậu mồng tơi xanh dờn” kia của ông thi sĩ Nguyễn Bính, phải lén bò qua nhà nàng nên làm rớt hết mấy hạt mồng tơi đen thui đen thủi. Nói gọn cho nó đúng phép thì “ mồng tơi” ở đây chính thị là cái mồng của áo tơi lá chứ không hề là chiếc lá mồng tơi nấu canh giải nhiệt, hay làm hàng giậu chia cách chàng nàng.
Than ôi cái tật sa đà của tôi, nói chuyện áo tơi nhưng kết thúc thành ra chuyện nghèo rớt mồng tơi. Thật rách việc!