LÝ THÀNH PHƯƠNG
Trong lịch sử thế giới, chưa từng có một tôn giáo nào bành trướng một cách mạnh mẽ và nhanh chóng cho bằng Hồi giáo. Từ một nhóm người du mục sống trong một ốc đảo heo hút giữa sa mạc, họ đã mau chóng biến thành một Đế quốc tung hoành từ bán đảo Ả Rập đến Âu châu và từ Bắc Phi đến tận các nước Châu Á.
Từ thế kỷ 13 đến thế kỷ 20, những biến cố đặc biệt của thế giới đã đưa đến sự hình thành ba đế quốc Hồi giáo.
Trước hết là sự xâm lăng của quân Mông Cổ chiếm các nước Trung Đông và sau đó chiếm các nước Bắc Ấn và nhiều nước Á châu khác tạo thành một đế quốc Mông Cổ rộng lớn. Từ cuối thế kỷ 13, nhiều hoàng đế Mông Cổ theo đạo Hồi đã tạo nên đế quốc Hồi giáo Mughal (do chữ Mongol mà ra).
Trong thế kỷ 15, tại Âu châu, người Thổ Nhĩ Kỳ Hồi giáo chế ra thuốc súng và lập ra binh chủng pháo binh đầu tiên trên thế giới. Dựa vào sức mạnh quân sự, người Thổ Hồi giáo xua quân đánh chiếm nhiều nước trên cả ba lục địa Âu, Á, Phi và lập nên Đế quốc Hồi giáo Ottoman.
Cuối cùng, dân tộc Azerbaijan ở Tây Nam biển Caspian theo giáo phái Shiite bỗng nhiên trở nên hùng mạnh vào đầu thế kỷ 16, cất quân đánh chiếm nhiều nước Âu châu và Trung Đông tạo thành đế quốc Hồi giáo Safavids.
Đế Quốc Mughal
Mughal là tiếng phiên âm Ả Rập để gọi người Mông Cổ (Mongol). Người sáng lập đế quốc Mông Cổ là Thành Cát Tư Hãn (Genghis Khan 1162-1227). Thoạt đầu ông thống nhất các bộ lạc du mục Mông Cổ vốn có tài cưỡi ngựa và bắn cung. Sau đó ông huấn luyện và tổ chức họ thành quân ngũ và biến họ thành những đoàn kỵ binh bách chiến bách thắng. Với đoàn quân hùng mạnh này, Thành Cát Tư Hãn đã lần lượt đánh chiếm nhiều nước từ Á sang Âu tới tận Trung Đông và Phi châu.
Sau khi Thành Cát Tư Hãn qua đời, ba thế lực thừa kế chia nhau thống trị Trung Quốc, vùng thảo nguyên chung quanh Mông Cổ, và bán đảo Ả Rập. Vào thời điểm này, đế quốc Mông Cổ trải rộng từ Trung Quốc, Cao Ly, Ngoại Mông, hàng chục nước Trung Á và Bắc Ấn Độ, Syria, Palestine, Thổ Nhĩ Kỳ.

Vào năm 1295, hoàng đế Mông Cổ Ghazan Khan của nhánh cai trị bán đảo Ả rập lại theo đạo Hồi thuộc giáo phái Sunni. Từ đó về sau, các hoàng đế Mông Cổ của nhánh này đều theo đạo Hồi. Càng về sau, các quan và cả triều đình Mông Cổ trong Đế quốc đều thành những tín đồ Hồi giáo.
Hoàng đế Mông Cổ Timur Lenk đóng đô tại Thổ Nhĩ Kỳ xua quân đánh chiếm Iran năm 1387, chiếm hải cảng Golden Horde của Nga năm 1395, chiếm Ấn Độ năm 1398, tàn phá thủ đô New Delhi và giết hàng chục ngàn tù binh Hindu tại đây.
Năm 1400, Timur chiếm hai nước Iran và Iraq. Tại đây, Timur ra lệnh tàn sát hàng triệu người thuộc giáo phái Shiite. Vì quá say máu chiến thắng, năm 1404, Timur kéo quân ngược về phía Trung Á rồi vượt biên giới tiến đánh vào phía Tây Trung Quốc (vào lúc này, nhánh đế quốc Mông Cổ – cai trị Trung Quốc đã bị nhà Minh đánh bại chạy về thảo nguyên Mông Cổ). Cuộc chiến kéo dài qua năm sau, Trung Quốc phản công giết quân Mông Cổ rất nhiều và bản thân Timur cũng bị tử trận trong năm 1405.
Những hoàng đế Mông Cổ kế tiếp chú trọng việc mở rộng đế quốc ở châu Á, lúc đó họ được gọi là Đế quốc Hồi giáo Mughal.
Năm 1478, đế quốc Mughal chiếm Indonesia và biến nước này thành nước Hồi giáo. Ngày nay, Indonesia là một nước đông dân nhất của thế giới đạo Hồi với trên 200 triệu dân.
Từ 1520 đến 1837, đế quốc Mughal cai trị toàn Ấn Độ. (Ấn Độ mang tên Mughal Empire of India). Hoàng đế Mông Cổ đóng đô tại New Delhi. Năm 1643, hoàng đế Mông Cổ cho xây lăng mộ của hoàng hậu ở ngoại ô New Delhi rất nổi tiếng, đó là đền Taj Mahal.
Năm 1747, đế quốc Mughal chiếm Afghanistan và cai trị nước này 100 năm.
Đế quốc nào rồi cũng có lúc phải suy tàn theo chiều dài lịch sử để nhường bước cho những thế lực mới. Với sự trỗi dậy của Âu châu vào thế kỷ thứ 19, vào năm 1831, người Anh, với quân sự cơ giới tối tân, chiếm Ấn Độ và chấm dứt Đế quốc Mughal trên lục địa Châu Á.
Đế quốc Ottoman (1289-1924)
Danh từ Ottoman xuất phát từ tên của một bộ lạc du mục là Osman ở phía tây Thổ Nhĩ Kỳ. Bộ lạc này bắt đầu khởi binh từ năm 1280. Chỉ trong chín năm, họ chiếm một vùng lãnh thổ rộng lớn gồm có Tây Nam Á châu, Đông Nam Âu châu và Đông Bắc Phi châu. Họ gọi đế quốc của họ là Ottoman. Những người lãnh đạo Đế quốc này đều theo đạo Hồi thuộc giáo phái Sunni. Họ chẳng những nổi tiếng về tài năng thao lược quân sự mà còn nổi tiếng về khả năng chính trị rất khéo léo của họ. Nhờ vậy, Đế quốc Ottoman đã tồn tại qua bảy thế kỷ.
Năm 1389, quân Ottoman chiếm Albania và Kosovo, biến vùng này thành những nước theo Hồi Giáo.
Năm 1444, quân Ottoman đánh tan Thập tự quân của Giáo hoàng La Mã tại Bulgaria.
Năm 1453, quân Hồi giáo Ottoman xóa sổ đế quốc Byzantine, tức Đế quốc Kitô Giáo Đông phương và chiếm thủ đô của đế quốc này là thành phố Constantinople.
Điểm son của Ottoman là sau khi chiếm Constantinople và nhiều lãnh thổ của Byzantine, Ottoman công bố chính sách khoan dung tôn giáo đối với Do Thái Giáo và Kitô Giáo. Nhờ vậy, trong nhiều thế kỷ sau, Ottoman đã mở rộng thương mại với các nước Âu châu Kitô Giáo và trong lãnh thổ Đế quốc không có một cuộc nổi loạn nào. Tuy nhiên, đối với giáo phái Shiite, Ottoman có một chính sách quyết liệt không khoan nhượng.
Năm 1467, Ottoman công bố thánh chiến với giáo phái Shiite, các tín đồ Shiite trong đế quốc bị lùng giết.
Từ 1467 đến 1520, quân Ottoman tiến chiếm Syria, Ai Cập, Bắc Phi và toàn bán đảo Ả Rập.
Từ 1520 đến 1534, quân Ottoman chiếm Nam Tư và một phần Âu Châu tới thủ đô Vienne của Áo.
Năm 1606, Ottoman chiếm Romania, Hungary, Ba Lan và Tiệp Khắc. Tới lúc này, đế quốc Ottoman trở thành siêu cường quốc tế.
Từ đầu thế kỷ 19, các cường quốc Âu châu (Anh, Pháp, Đức) bắt đầu xâm chiếm các phần đất của Ottoman và dồn đế quốc này vào chỗ suy tàn.
Đế quốc Safavids của giáo phái Shiite (1501-1779)
Thoạt đầu Safavids là một nhánh của giáo phái Shiite xuất phát tại nước Azerbaijan ở Tây Nam biển Caspian.
Năm 1501, lãnh tụ của giáo phái Safavids là Esmail khởi binh lật đổ chính quyền Azerbaijan. Esmail tự xưng là “Vua Hồi giáo” (Sha/Sultan) và ra lệnh cho toàn dân phải theo đạo Hồi (giáo phái Shiite). Ít lâu sau, Esmail xua quân đánh chiếm các nước lân cận theo Chính thống giáo là Armenia, Georgia và vùng núi Caucase của Nga. Trong thời gian chiếm đóng, quân Hồi Safavids đã giết hại rất nhiều người Chính thống giáo. Riêng tại Armenia, số tín đồ Chính thống giáo bị giết lên tới một triệu người. Sau đó quân Safavids chuyển qua phía đông tấn công thành phố Anatolia để dằn mặt Đế quốc Ottoman theo giáo phái Sunni.
Trong khi đó, một nhóm khác thuộc giáo phái Shiite ở Ba Tư nổi lên cướp chính quyền của giáo phái Sunni. Nhóm nổi loạn ra lệnh cho cả nước Ba Tư phải theo Shiite, ai bất tuân lệnh đều bị giết. Tất cả các học sĩ lãnh đạo giáo phái Sunni đều bị chém đầu, không sót một ai. Kể từ đó, nước Ba Tư (Iran) trở thành một quốc gia toàn tòng theo giáo phái Shiite. Các vua Hồi giáo Ba Tư được gọi là Sha, vừa là vua vừa là Giáo chủ, phần đông đều cực đoan và hung dữ.
Phần đông các học sĩ Hồi giáo Ba Tư đều theo môn phái triết học thần bí, họ cho rằng: “Chính trị và tôn giáo là một, không thể tách rời. Mọi cải cách xã hội không thể vượt quá tư tưởng tôn giáo“.
Với bản chất cuồng tín cực đoan cố hữu của giáo phái Shiite, nay lại có thêm chủ thuyết thần bí của các Mullahs (học sĩ) giáo phái Shiite càng ngày càng trở nên cực đoan nguy hiểm. Họ luôn luôn có thái độ bất khoan dung với các tôn giáo khác, nhất là đối với giáo phái Hồi giáo Sunni, chiếm 80% dân số đạo Hồi.* **
Sự bành trướng của Hồi giáo, từ thế kỷ 13 đến thế kỷ 20, đã xuất hiện ba đế quốc Hồi giáo riêng biệt và luôn tranh chấp với nhau. Cả ba đế quốc Hồi giáo đã được thành lập và suy tàn vào những thời điểm khác nhau:
Đế quốc Mughal thành lập đầu thế kỷ 13, suy tàn cuối thế kỷ 19.
Đế quốc Ottoman thành lập cuối thế kỷ 13, suy tàn đầu thế kỷ 20.
Đế quốc Safavids thành lập đầu thế kỷ 16, suy tàn trong thế kỷ 18.
Như vậy, hai đế quốc Hồi giáo lớn mạnh nhất là Ottoman và Mughal đã cùng tồn tại song song và chia nhau thống trị thế giới Hồi giáo bao la trong 7 thế kỷ. Ít nhất là trong 200 năm, từ thế kỷ 16 đến thế kỷ 18, cả ba đế quốc Mughal, Ottoman và Safavid cùng tồn tại trong thế giới đạo Hồi (The Islamic World).
Từ thế kỷ 18 trở đi, các nước Âu châu trở nên hùng cường mọi mặt đã đẩy lùi các đế quốc Hồi giáo đến chỗ suy tàn. Khởi đầu là nước Nga đánh tan quân Ottoman ở vùng Biển Đen năm 1774, chiếm lại Armenia và vùng núi Caucase. Năm 1792, Nga chiếm Georgia và Romania từ tay Ottoman. Đầu thế kỷ 19, Nga chiếm toàn bộ miền Trung Á gồm nhiều nước theo đạo Hồi thuộc đế quốc Mughal. Sau cuộc Cách Mạng Tháng Mười Nga năm 1917, các nước Hồi giáo Trung Á đều biến thành các tiểu bang thuộc Liên Bang Xô Viết (Liên Xô).
Đầu thế kỷ 19, Hòa Lan chiếm Indonesia và Mã Lai. Anh chiếm Ấn Độ bao gồm cả một tiểu lục địa (sau 1947, Ấn Độ bị chia thành nhiều nước: Pakistan, Bangladesh, Tích Lan và Ấn Độ). Cuối thế kỷ 19, Anh chiếm Ai Cập và Sudan. Pháp chiếm Algeria, Tunisia, Maroc, và Việt Nam.
Đầu thế kỷ 20, Ý chiếm Libya. Anh và Pháp chiếm Palestine, Jordan, Iraq, Syria và Liban.
Tóm lại, từ đầu thế kỷ 20, chỉ ngoại trừ một nước duy nhất là Thổ Nhĩ Kỳ, còn lại toàn bộ thế giới Hồi Giáo đều trở thành những thuộc địa của chủ nghĩa thực dân Âu châu.
Lịch sử bành trướng và phát triển của đạo Hồi luôn luôn gắn liền với chiến tranh và bạo lực. Vì thế đạo Hồi nổi tiếng là “tôn giáo của lưỡi gươm” (Religion of Sword) hoặc “tôn giáo quân phiệt” (Militaristic Religion).
Kinh Thánh Koran của Hồi Giáo được gọi là “Cuốn sách của tử thần” (The Book of Death) và đức tin Hồi Giáo là: “đức tin hung bạo” (a violent faith). Trong hơn một thế kỷ qua, thế giới Hồi giáo đã bị Tây Phương dồn vào thế suy kiệt mọi mặt. Họ không còn con đường nào khác hơn là thực hiện chủ nghĩa khủng bố. Về hình thức thì ngày nay chiến tranh có khác với ngày xưa, nhưng về thực chất thì chủ nghĩa khủng bố cũng là một hình thái của chiến tranh và bạo lực. Chỉ khác một điều: chủ nghĩa khủng bố là hình thái chiến tranh của những kẻ đã bị dồn vào thế yếu nhưng buộc phải chiến đấu với kẻ thù lớn mạnh hơn mình để tồn tại.
Nhìn về tương lai, chúng ta khó đoán được cuộc chiến tranh khủng bố sẽ đưa nhân loại đi về đâu, nhưng nhìn về quá khứ chúng ta phải công nhận sức mạnh của Hồi giáo đã tạo nên nhiều thành tích quan trọng:
Thế kỷ 7, Hồi giáo Ả Rập tiêu diệt đế quốc Sassanian đã từng làm mưa làm gió ở Trung Đông trong 10 thế kỷ trước đó.
Trong thế kỷ 15, Hồi giáo Thổ Nhĩ Kỳ tiêu diệt đế quốc Kitô Giáo Byzantine (hậu thân của đế quốc La Mã) chặn đứng sự bành trướng của Kitô Giáo xuống bán đảo Ả Rập và Trung Đông.
Nói chung, sự xuất hiện và phát triển lớn mạnh của đạo Hồi đã tạo nên một đối trọng ngang ngửa với Kitô Giáo và tựu trung Hồi giáo đã phá tan tham vọng bá chủ toàn cầu của Vatican.
Nước Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay
Tên chính thức là Cộng hòa Thổ Nhĩ Kỳ, có lãnh thổ nằm phần lớn ở Tây Á và một phần nhỏ ở Âu châu. Với vị trí nằm tại nơi giao cắt giữa châu Âu và châu Á, Thổ Nhĩ Kỳ có tầm quan trọng chiến lược đáng kể.
Dân số khoảng 85 triệu, đại đa số là tín đồ Hồi giáo Sunni. Tuy nhiên, người Thổ Nhĩ Kỳ cho rằng họ là một quốc gia thế tục không có quốc giáo chính thức. Hiến pháp Thổ Nhĩ Kỳ quy định về quyền tự do tôn giáo. Thủ đô nằm ở Istanbul, tên cũ là Constantinople – thủ đô của Đế quốc Đông La Mã thời xưaThổ Nhĩ Kỳ có một nền công nghiệp ô tô và kỹ nghệ đóng tàu khá lớn. Các lĩnh vực chủ chốt khác của kinh tế Thổ Nhĩ Kỳ là ngân hàng, xây dựng, thiết bị gia dụng, thiết bị điện tử, các sản phẩm lọc hóa dầu, thực phẩm, khai mỏ, gang thép, và chế tạo máy. Ngày nay kỹ nghệ du lịch cũng rất phát triển nhờ sự cởi mở về chính trị và tôn giáo, dù rằng quốc gia này theo Hồi giáo. Nếu tính theo GDP thì kinh tế của Thổ Nhĩ Kỳ đứng hàng thứ 18 trên thế giới.
Cùng một tác giả: https://www.toiyeutiengnuoctoi.com/category/tac-gia/i-to-p/ly-thanh-phuong/