Ký ức về cái Tết đầu tiên ở Sài Gòn

by Tim Bui
Ký ức về cái Tết đầu tiên ở Sài Gòn

QUYÊN DI

Không hiểu tại sao Xuân Ất Tỵ năm nay trong tôi ký ức của Tết Ất Mùi, cái Tết đầu tiên của gia đình tôi ở Sài Gòn, chợt ùa về. Và nhớ cái Tết đầu năm 1955 đó, thì không thể không nghĩ đến biến cố chia đôi đất nước đã thay đổi lịch sử Việt Nam cách đây đã 70 năm…

Tôi nhớ một ngày cuối tháng Tám năm 1954.

Buổi sáng tinh mơ, anh chị em chúng tôi còn nằm ngủ trong màn, yên chí vì không còn phải đi học.

Ánh đèn bên ngoài làm cho chói mắt, tôi hé mắt nhìn ra. Trên cái sập gụ, bố mẹ tôi đang mở rộng tờ nhật báo đọc tin tức rồi thì thầm bàn tán. Tôi nghe loáng thoáng tiếng còn tiếng mất, nào là di cư, hiệp định Giơ-neo, Uỷ Hội Quốc Tế Kiểm Soát Đình Chiến, Gia Lâm, Tân Sơn Nhất, Sài Gòn…

Đầu óc non nớt của tôi không hiểu gì cả. Tôi nhắm mắt, sung sướng vì được ngủ đẫy giấc, không bị mẹ gọi dậy rửa mặt mũi tay chân, ăn bát cháo trắng với cà muối rồi đi bộ đến trường. Tuy nhiên, tôi nhớ con Hà, con bé nhà giàu thỉnh thoảng dúi cho tôi năm hào mua cái bánh rán của bà bán bánh trước cổng trường. Không biết hôm nay nghỉ ở nhà, nó làm gì. Tôi cũng nhớ chị Bích Khuê, bà chị “nhận vơ” đã cùng ở chung một nếp nhà người ta cho ngụ tạm với gia đình tôi trong những ngày tản cư, rồi sau đó cũng lại hồi cư Hà Nội như gia đình tôi vậy. Tuần trước tôi thấy chị trên đường phố. Tôi gọi nhưng hình như chị không nghe thấy. Ôi, chị Bích Khuê, chị xuất hiện trong cuộc đời tôi như một cô tiên xinh đẹp tuyệt trần.

Thế rồi, những ngày sau đó dần dà tôi cũng hiểu. Gia đình chúng tôi sẽ di cư vào Nam, mà lại đáp máy bay kia đấy!

Sau hơn một tuần bán tống bán tháo hoặc cho đi ai muốn lấy gì thì lấy tất cả đồ đạc trong nhà, bố mẹ tôi đưa cả gia đình ra tòa Thị Chính Hà Nội. Ở đó một vài hôm, chúng tôi được xe nhà binh đưa ra phi trường Gia Lâm. Lại ở đó một đêm, sáng sớm hôm sau lúc trời còn tối đen, đom đóm bay đầy trời, xe nhà binh chở chúng tôi ra phi đạo. Mọi người lần lượt lên máy bay, kẻ đứng người ngồi chật cả mấy khoang.

Máy bay hạ cánh xuống phi trường Tân Sơn Nhất. Đoàn người di cư lại được xe nhà binh chở về bệnh viện Bình Dân, gần Cư xá Đô Thành. Ban tiếp nhận đồng bào di cư xem danh sách rồi chia cho mỗi gia đình một chỗ lớn bằng hai vuông chiếu trên hành lang bệnh viện. Người lớn lo lắng, bàn tán chuyện ăn ở, chuyện tương lai. Bọn trẻ con chúng tôi vốn hồn nhiên vô tư, chạy chơi, đuổi bắt nhau trong sân bệnh viện, lúc ấy cỏ mọc cao quá đầu gối người lớn. 

Không biết lo liệu, vay mượn cách nào mà chỉ hơn một tháng sau, bố mẹ tôi đã mua được một “căn nhà cây” ở cuối chợ Vườn Chuối. Từ bệnh viện Bình Dân đi bộ đến chỗ này người ta chỉ mất chừng 15 phút.

Hồi đó, bà con miền Nam gọi thứ nhà này là “nhà cây” vì nó làm bằng ván gỗ, thứ ván mỏng và rẻ tiền chứ không phải là gỗ quý. Nhà nọ sát vách nhà kia. Những tấm ván gỗ theo năm tháng dầm mưa dãi nắng co rút lại tạo thành những khe hở, người nhà bên này có thể nhìn thấy (khá rõ) nhà bên kia. Tôi nghe nói đã có những cuộc tình, những buổi hẹn hò bằng những lá thư nhét qua kẽ hở vách ván.

“Nhà cây” của gia đình tôi oai ra phết! Nó có hai tầng. Chuyện tức cười là cầu thang lên tầng trên không nằm ở trong nhà mà là ở ngoài đường. Hình như trước đây có hai gia đình ở căn nhà này, một gia đỉnh ở tầng dưới, gia đình kia ở tầng trên. Thế là gia đình ở tầng trên có “lối đi riêng” như thế đó.

Vì nhà chỉ cách nhau bằng mấy tấm ván gỗ có khe hở nên chúng tôi, người Bắc di cư, và gia đình chị Lượng bên cạnh, người Nam chính cống, tha hồ cười nhau.

Sáng sớm, bên này chúng tôi nghe bên kia, má chị Lượng sai bảo chị: “Con Hai, kêu ba mày xuống ăn đồ!” Giời ạ! Sáng sớm mời nhau “ăn đồ” nghĩa là làm sao! Và chúng tôi không nhịn được cười. Ngược lại, người bên nhà chị Lượng cũng tròn mắt rồi sau đó lăn ra cười khi thấy mẹ tôi bảo chị Liên: “Con lấy cho bà nội cái cùi-dìa chứ đũa trơn lắm, bà nội không gắp được!” Buổi chiều, chị Lượng thấy tôi đứng thơ thẩn trước cửa, mới hỏi: “Nè em, cái cùi-dìa là cái gì dzậy?”

Lật bật chúng tôi cư ngụ trong “căn nhà cây” cuối chợ Vườn Chuối đã bốn, năm tháng.

Tết đến! Năm ấy, Tết Ất Mùi đến sớm, mới 24 tháng Giêng, 1955 đã Tết. Đêm 29 Tết, cả nhà chúng tôi bùi ngùi ngồi nhớ quê cha đất tổ. Mọi năm từ 23 tháng Chạp mọi người đã xôn xao sắm Tết, kể cả trong những năm tản cư, và những năm hồi cư Hà Nội cuộc sống chưa ổn định. Rồi bánh chưng, dưa hành. Rồi đánh đụng chia nhau cân thịt. Rồi tranh Tết, câu đối Tết. Rồi pháo chuột, pháo đùng… Năm nay gia đình mình sẽ ăn Tết ra sao?

Đêm giao thừa, bố mẹ tôi dọn bàn thờ. Bên trên có tượng Thánh Giá với Chúa Giê-su chịu nạn và ảnh Đức Mẹ Maria. Bên dưới là ba khung di ảnh của ông nội và ông bà ngoại tôi. Chúng tôi đọc kinh cầu nguyện, xin Chúa ban ơn lành và dẫn dắt chúng tôi trên đoạn đường lưu lạc viễn phương.

Xong xuôi, chúng tôi ngồi chung quanh mâm cơm trắng, có món thịt gà luộc chấm muối tiêu, chanh. Trên mặt đĩa thịt gà, mẹ tôi rắc mấy sợi lá chanh non xắt nhỏ như tơ. Bữa ăn giao thừa trên xứ lạ như vậy là sang lắm rồi.

Mồng Một Tết năm ấy cũng là Chủ nhật. Cả gia đình chúng tôi đi bộ dọc theo đường rầy xe lửa lên đến nhà thờ Chợ Đũi dâng lễ đầu năm. Giọng đọc kinh, thưa kinh của bà con miền Nam, chúng tôi nghe vẫn chưa quen tai, còn đọc theo thì không đọc được. Mấy tiếng “Thánh tai! Thánh tai” bà con đọc vang lên trong tiếng lắc chuông rộn rã nghe thật lạ tai (thánh tai là thánh thay, phát âm theo giọng Nam, có nghĩa tương tự như “thiện tai”).

Đi bộ về nhà, chúng tôi thấy chị Lượng đã đứng trước cửa, hai tay bưng một cái khay. Thấy mẹ tôi, chị cười ngỏn ngoẻn: “Má tui biểu tui đem dưng mấy thứ này để bà và cô chú cùng mấy đứa nhỏ ăn Tết!” Mẹ tôi nhìn vào khay, thấy có miếng thịt heo quay lớn và một đĩa bánh hỏi cũng lớn. Bà cảm động rớm nước mắt. 

Chị Lượng lại nói: “Nếu cô chú ưng, giấc chiều tui dắt mấy đứa nhỏ vô Chợ Lớn coi người ta múa lân, múa rồng. Ngộ lắm!”

Mẹ tôi còn đang lưỡng lự thì bỗng nghe tiếng la rần rần vang dội. Chúng tôi nhìn lên: một “cô” đẹp lắm, má đỏ môi hồng, mà người trông lực lưỡng như đàn ông đang cưỡi ngựa tiến tới, theo sau là trẻ con, người lớn nói cười vui vẻ.

“Cô” ngồi trên lưng ngựa mà vừa múa vừa hát, lâu lâu lại tung một mớ tiền cắc xuống đất, con nít tranh nhau lượm. Chị Lượng la lên: “Uý! Sao bữa nay mới mồng Một Tết mà “cô” đã ra oai dzậy nè! Phải rằm tháng Ba, tháng Tư “cô” mới xuất hiện như mọi năm chớ!” “Cô” liếc chị Lượng một cái bằng ánh mắt sắc như dao làm chị sợ hãi cúi gằm mặt xuống.

Sau này tôi mới biết “cô” đây là một người đàn ông làm nghề “cô bóng.” “Cô” này là đàn ông nhưng thích ăn mặc loè loẹt, múa may rất giỏi. “Cô” không hề mặc cảm về giới tính và công việc của mình, trái lại còn lấy làm hãnh diện. Hôm ấy tôi cũng biết thêm là chính vì cái gia đình “Bắc Kỳ di cư” chúng tôi đến cư ngụ ở xóm này mà “cô” xuất hiện sớm cho chúng tôi biết oai cô. Chả thế mà từ trên mình ngựa, “cô” vời mấy chị em chúng tôi lại, hạ cố ban cho mỗi đứa mấy cắc, không phải tranh nhau nhặt như mấy đứa con nít khác.

Buổi chiều, chị Lượng chưa kịp dắt chúng tôi vào Chợ Lớn coi múa lân thì có bà trong xóm, mẹ con Lan, đem qua cho chúng tôi một trái sầu riêng, nói là trái này quý lắm, rất là thơm ngon mỹ vị, đủ cả năm mùi. Chúng tôi hít hà, chờ đợi lúc mẹ tôi bửa trái sầu riêng ra. Thế nhưng chúng tôi chạy té ra hết vì khi trái được bửa ra, không ai chịu được cái mùi lạ lùng và hình dạng “quái lạ” của múi sầu riêng. Chúng tôi đâu biết má con Lan quý chúng tôi lắm mới cho trái này, vì đây là trái sầu riêng ra trái mùa, hiếm lắm. (Về sau chúng tôi mê sầu riêng không ai cản nổi!)

Bảy mươi năm qua, hôm nay ngồi nhớ lại cái Tết đầu tiên của gia đình tôi ở Sài Gòn, lòng tôi thấy bùi ngùi, xúc động. Gia đình chị Lượng bây giờ ra sao? “Cô” chắc đã về miền tiên cảnh. Con Lan như thế nào rồi? Hồi đó má nó nói nó là con Tiên con Phật, không biết ăn thức ăn như con người ta, chỉ ăn toàn trái cây thôi nên da mặt mịn màng, đỏ hồng. Sau tháng Tư 1975, nó đói không có gì ăn, ai cho gì nó ăn nấy, chẳng còn kén chọn “chỉ ăn trái cây” vì là con Tiên con Phật.

Tôi nhớ cái bàn thờ đơn sơ của một gia đình Bắc Kỳ di cư, nhớ bữa cơm giao thừa chỉ  có món gà luộc, nhớ miếng thịt quay và đĩa bánh hỏi, nhớ trái sầu riêng.

Tôi nhớ tiếng “Thánh tai! Thánh tai!” trong nhà thờ Chợ Đũi…

Quyên Di      

You may also like

Leave a Comment

Verified by MonsterInsights