BÌNH LỢI
Những ngày trong Tết Ất Tỵ đến nay, cảng cá làng Phú Câu, phường 6, Tuy Hòa, Phú Yên, gần như vắng bóng ghe thuyền, vì tất cả đang ở ngoài khơi xa cho chuyến đánh bắt cá ngừ đại dương, mỗi chuyến kéo dài khoảng một tháng hoặc lâu hơn. Hơn 30 năm trước, làng Phú Câu là nơi phát tích nghề đánh bắt cá ngừ đại dương đầu tiên tại duyên hải Nam Trung bộ.
Cá ngừ đại dương từng vứt lăn lóc trên đường
Hiện nay, cá ngừ đại dương đã trở thành một sản vật quý của biển cả, giúp ngư dân các tỉnh duyên hải Nam Trung bộ từ Quảng Ngãi đến Bình Thuận có cuộc sống no đủ nhờ xuất cảng sang thị trường Nhật, Mỹ. Nhưng khoảng hơn 30 năm trước, loài cá này chẳng có ý nghĩa gì với ngư dân.
Cá ngừ đại dương được dân bản địa gọi là “cá bò gù.” Cái tên bò gù rất tượng hình khi ngư dân dùng mô tả hình dạng của loài cá này. Đơn giản vì cái lưng của cá ngừ đại dương “gù,” thịt đỏ như thịt bò và mỗi con cân nặng có khi cả tạ hoặc hơn. Ngày trước, khi câu được cá bò gù, chủ ghe thường cho “người đi bạn” – (cách gọi người đi làm thuê trên ghe là bạn, chắc có lẽ xuất phát từ câu: Đàn ông đi biển có đôi/Đàn bà đi biển mồ côi một mình, nên người làm thuê được chủ ghe gọi là bạn) – mà không dùng loại cá này vào bất cứ việc gì.
Thời ấy, “người đi bạn” sau khi ghe cập bến sẽ đem những con cá ngừ khổng lồ cho lại phụ nữ trong làng. Thường thì họ cắt cá bò gù ra từng khúc dày hơn tấm thớt gỗ rồi xát muối hột vứt trên đường cái quan hoặc bất kỳ đâu có thể phơi được, mặc cho ruồi nhặng và nắng gió hong khô. Cá ngừ đại dương ngày đó chỉ có một thị trường duy nhất là miền núi, những nơi thiếu cá biển. Đem khô cá ngừ đại dương trên các chiếc xe máy thồ hàng leo đèo lội suối đi bán dạo bán cùng với những món tạp hóa khác, cũng được nhiều người mua về tích trữ ăn dần nhưng với giá rất bèo so với hiện nay.
Tại sao cá ngừ đại dương một thời bị đối xử không “xứng tầm” như một sản vật quý của biển cả? Tìm hiểu các lão ngư trong làng Phú Câu, hầu hết đều cho đó là phong tục của dân biển nhiều đời nay. Bởi dân biển có tục thờ cúng cá voi hoặc cá heo. Với cá voi khi chết dạt vào bờ được ngư dân gọi là “ông lụy,” người phát hiện “ông lụy” có nhiệm vụ thông báo cho dân làng làm lễ chôn cất như đám tang người quá cố. Bản thân người phát hiện “ông lụy” để tang ba năm như với cha mẹ trong gia đình khi mất.
Cá voi được dân biển gọi là Ông Nam Hải, cá heo gọi là Ông Nược. Tục lệ này được tương truyền từ thời vua Gia Long, khi lênh đênh trên biển lánh nạn nhà Tây Sơn, thuyền Nguyễn Ánh gặp giông tố tưởng chìm đã được cá voi đưa lưng vào đỡ thuyền. Sau khi lên ngôi, Gia Long đã sắc phong cho cá voi là Nam Hải Đại tướng quân và hiện nay ở các làng chài ven biển từ miền Trung vào đến Cà Mau đều có đình miếu thờ cá voi và cá heo. Khi hai loài cá này gặp nạn dạt vào bờ đều được ngư dân vớt lên chôn cất, sau ba năm mãn tang thì hốt cốt đưa vào đình thờ cúng.
Hiện tại, làng Phú Câu vẫn duy trì phong tục này và có hẳn một ngôi đình làng mang tên Phú Câu để hương khói cho hài cốt hai loài cá nay. Chính vì phong tục thờ cá voi, cá heo – những loài cá được cho là rất thân thiện và luôn cứu giúp ngư dân khi gặp nạn trên biển – nên các chủ tàu thường ít khi “ăn thịt” những loại cá có kích cỡ to và hiền lành như cá bò gù hay còn được biết đến tên phổ biến là cá ngừ đại dương. Truyền thống này của ngư dân Việt rất khác nhiều quốc gia, như Nhật Bản, họ có hẳn nghề săn cá voi và rất ưa chuộng thịt cá ngừ đại dương.
Tuy nhiên, câu chuyện mà các lão ngư dân kể lại đã thuộc về quá khứ. Lý do chính để cá ngừ đại dương hay cá bò gù lúc đó không có giá trị gì vì ngư dân không biết cách “ăn thịt” chúng. Theo nhiều ngư dân ở Phú Câu, hiện nay có món cá ngừ đại dương ăn sống với mù tạt theo cách người Nhật, rất được ưa chuộng trong các nhà hàng sang trọng, chứ trước kia không có ai ăn sống như vậy. Cá biển có rất nhiều chủng loại nấu chín thơm ngon, trong khi thịt cá ngừ đại dương là loại nấu chín chỉ có thể cho heo ăn chứ người ăn rất dở, thua xa các loại cá ngừ khác.
Làng Phú Câu ở Phú Yên cũng như nhiều làng biển khác ở Việt Nam, các làng biển thường có rất nhiều Việt Kiều. Đơn giản vì trong những năm tháng sau biến cố 1975, chính quyền mới xây dựng đất nước theo kinh tế kế hoạch nhà nước, hay còn được gọi là thời kỳ bao cấp vô cùng khốn khó, nhiều người ở thành thị bán nhà để tìm cách vượt biên. Ngư dân có nhiều thuận lợi hơn khi ghe thuyền có sẵn, những ai muốn vượt biên thì giong thuyền đi biển đánh cá rồi vượt biên luôn khá dễ dàng so với người ở những vùng miền khác. Cá ngừ đại dương trở thành ngành nghề chủ lực của ngư dân ở Tuy Hòa hiện nay phải kể đến công “phát hiện” của những Việt Kiều sau này hồi hương.
Khoảng đầu những năm 1990, khi chính quyền trong nước mở cửa, nhiều Việt Kiều ở phường 6, Tuy Hòa đã về quê thăm người thân. Trong số đó có một ông Việt Kiều đang làm nghề buôn bán cá ở Nhật. Ông này nhìn thấy cá bò gù bị vứt lăn lóc trên đường cái quan không khỏi tiếc nuối, vì ở Nhật cá ngừ có giá mắc… như sâm! Sau khi về Nhật, ông dò tìm đầu ra cho loại cá này và đặt hàng người thân tại làng Phú Câu bán cá ngừ đại dương cho ông. Dần dà mở rộng thành một làng nghề chuyên đánh bắt cá ngừ. Hiện, tại cảng cá làng Phú Câu có rất nhiều chủ vựa thu mua cá ngừ và vì thời gian khá lâu nên ít người còn nhớ ông Việt Kiều Nhật năm nào là ai trong số các chủ vựa tại đây.
Sống đời chim trời cá biển
Khoảng 30 năm trước, bến cá làng Phú Câu có khoảng 20 chiếc tàu có công suất lớn để đánh bắt xa bờ. Những chiếc tàu này ngư dân gọi là “ghe câu to” chuyên đi câu cá nhám – tức cá mập – để lấy vây cá hay còn gọi là vi cá bán cho các thương lái phục vụ cho các nhà hàng sang trọng thích ăn món “bào ngư vi cá.” Khi cá ngừ đại dương có giá, các chủ “ghe câu to” dần chuyển sang chuyên chú câu bò gù và dần hình thành một nghề chuyên nghiệp. Từ ngày nghề câu cá ngừ đại dương phát triển, hiện có khoảng 400 tàu loại này tính ở cả hai làng biển Phú Câu (phường 6) và Đông Tác (phường Phú Thạnh) nằm hai bên cửa biển Đà Rằng. Sự phát triển của ghe tàu để săn bắt cá ngừ chứng tỏ nghề này sống rất được với ngư dân, nếu không muốn nói là có người đã phất lên và giàu.
Anh Thiện – một chủ ghe câu cá ngừ đại dương ở Phú Câu, cho biết:
“Lúc vật giá chưa leo thang, mỗi chuyến ra khơi cần khoảng 100-150 triệu đồng/ghe gọi là “phí tổn.” Nay “tổn” – chi phí ra khơi – phải hơn 200 triệu đồng. Nếu mỗi ghe ra khơi tầm một tháng, bắt được khoảng 25 con cá ngừ đại dương, mỗi con trung bình 40kg là “lại tổn.” Có tàu sau một tháng trên biển thu về hàng tỷ đồng nhưng cũng có tàu chỉ về chừng mười con cá xem như “lỗ tổn.”
Thường thì, các tàu trước khi xuất bến đều được các chủ vựa thu mua, chủ “cây xăng dầu” và nhà máy nước đá, tiệm tạp hóa bán thiếu cho những vật dụng, lương thực thiết yếu.
Nếu ghe về có lãi thì trả nợ liền, bằng không “ghi sổ” để đó đợi chuyến sau. Nhưng sống đời “chim trời cá biển” thì không có gì chắc chắn để nói rằng chuyến ra khơi lần này là thắng lợi. Có rất nhiều chủ ghe đã phải bán ghe, nhiều người vay tiền ngân hàng để đóng ghe thậm chí bán nhà để trả nợ do chuyến đi nào cũng bị “tổ trác.” Những chủ ghe bị phá sản như thế không chỉ họ và gia đình buồn mà những “người đi bạn” cũng buồn. Vì “người đi bạn,” tức làm thuê cho chủ ghe nhưng không được trả lương như các ngành nghề khác, mà họ được chia tỷ lệ phần trăm khi ghe cập bến và bán hết cá. Nếu cá ngừ đánh bắt được nhiều và bán được giá thì “người đi bạn” cũng được số tiền nhiều hơn đem về cho vợ ngồi nhà trông chồng ngoài biển cả tháng ròng.
Hỏi nhiều ngư dân, họ đều cho rằng ra khơi ngoài chuyện “hên xui” còn là kinh nghiệm “bí truyền” để biết cách bắt được nhiều cá bò gù hay không. Những năm đầu khi mới phát triển nghề này, ngư dân không biết dùng mồi gì để cá bò gù “khoái khẩu” nên hiệu quả “dính câu” rất thấp. Ngư dân làng Phú Câu vẫn truyền tai nhau câu chuyện về việc “truy tìm” mồi câu. Trên đại dương bao la ở hải phận quốc tế, trong khi tàu cá của nước khác “giật câu” cá ngừ liên tục thì tàu ta bắt được rất ít. Đêm đến, một ngư dân đã lặng lẽ dùng thuyền thúng bơi đến gần tàu bạn nhấc thử lưỡi câu lên xem mồi gì. Hóa ra là con cá chuồn – một loại cá rất nhiều trên biển. Nhưng cá ngừ cũng “đổi món” như mấy ông chán cơm lâu lâu thèm phở, chứ đâu chỉ quanh năm ăn cá chuồn. Thế rồi ngư dân làng Phú Câu tìm ra mực tươi còn sống ngọ ngoạy và nhiều loại mồi khác. Đến nay, mùa nào trong năm hoặc thời tiết thế nào thì dùng mồi câu gì để “dụ” cá ngừ đại dương vẫn là một “bí mật” của riêng từng chủ ghe trên cảng cá Phú Câu.
Chuyện “đủ tổn,” “có lời” hay “lỗ tổn” là “chuyện thường ngày trên biển” đối với ngư dân – những người “sống trên bờ chờ dưới nước.” Nhưng chuyện sóng to gió lớn, gặp nạn tàu chìm, người chết mất tích hoặc không toàn thây lại là chuyện khác. Cuối năm ngoái, tôi về làng Phú Câu nghe một câu chuyện vô cùng thương tâm vừa xảy ra trước đó không lâu. Ấy là ghe của nhà ông Sáu Ngao đã gặp giông tố trong hải trình trở về đất liền, ghe bị sóng đánh gãy làm đôi chết hết 4 người/8 người, có một người khi tìm được xác thì đầu không còn. Lẽ ra ghe của nhà ông Sáu Ngao đã vào bờ an toàn, nhưng vì một ghe của ngư dân khác bị chết máy trên biển gọi bộ đàm kêu cứu nên ghe ông quay lại. Giữa đường đi thì gặp nạn.
Dân đi biển có truyền thống là mỗi gia đình đều có ký hiệu riêng trên người để khi chết đi lâu ngày vẫn có thể nhận biết, giống như mấy ông lính đánh trận trong chiến tranh có chiếc thẻ bài đeo trước ngực vậy. Như trường hợp người chết bị mất đầu vừa nêu, gia đình vẫn có thể nhận ra người thân nhờ vết xăm sau lưng nạn nhân. Cả gia đình này ai cũng có vết xăm như vậy. Ngư dân còn có truyền thống “sống chết có nhau” khi gặp nạn trên biển. Nếu biết chắc là “trời không tha” thì họ sẵn sàng dùng dây cột tay nhau thành một chùm, để khi tìm thấy xác một người thì tìm thấy tất cả những người còn lại.
Cần bảo tồn nguồn cá
Nghề đánh bắt xa bờ, câu cá ngừ đại dương hiểm nguy là thế nhưng thành quả ngư dân nhận được không phải lúc nào cũng tương xứng. Ngoại trừ một vài hộ ngư dân được “trời đãi,” đa phần cũng chỉ đắp đổi qua ngày. Theo tìm hiểu, một chiếc tàu khoảng từ 7 – 10 người lênh đênh trên biển một tháng ròng, nếu bắt được khoảng 50 con cá bò gù loại 40kg trở lên, giá cá hiện này từ 130 – 170 ngàn/kg, sau khi trừ phí tổn, thì chia ra mỗi người có khoảng 10 triệu đồng. Nghề đi biển chỉ có cánh đàn ông làm nuôi phụ nữ và trẻ con ở nhà. 10 triệu đồng ấy chỉ có thể chi tiêu trong tháng và dành cho những tháng dài biển động. Xem ra, nghề câu cá ngừ đại dương đang hiện nay cũng không “ấm no” gì. Nếu không muốn nói là nghề rất bạc, bạc như biển bạc.
Những năm gần đây, trong hải phận Việt Nam, cá ngừ đại dương nói chung và các loại hải sản nói riêng đã sụt giảm đáng kể. Muốn đánh bắt được cá bò gù có giá trị kinh tế cao này, ngư dân phải ra khơi xa hơn, đồng nghĩa với phí tổn nhiều hơn. Nhưng không chỉ có chuyện tốn chi phí nhiều hơn, ngay cả khi trong lãnh hải Việt Nam, ghe thuyền của ngư dân cũng gặp rất nhiều trở ngại, đơn cử là khi đánh bắt trong quần đảo Hoàng Sa thì bị tàu Trung Quốc xua đuổi. Còn đi xa hơn ra ngoài lãnh hải để tìm nguồn cá, vượt qua cả hải phận quốc tế vào vùng biển của nước khác như Malaysia hay Indonesia thì bị bắt nhốt, xui hơn là họ cho đốt luôn ghe tàu – tài sản giá trị cả đời tích cóp của ngư dân.
Chính vì phải theo nguồn cá vì kế sinh nhai, nhiều ngư dân đã xâm phạm vùng biển nước khác. Đây cũng chính là lý do nhiều quốc gia ở Châu Âu gắn “thẻ vàng” và có thể “thẻ đỏ,” nghĩa là họ không thu mua thủy hải sản của Việt Nam. Nhưng việc này ở tầm quốc gia, quan trọng là người Việt phải biết bảo tồn, nuôi dưỡng nguồn lợi hải sản thay vì đánh bắt vô tội vạ, thậm chí tàn phá hủy diệt môi trường sống của các loài thủy sinh ở đại dương, trong đó có cá bò gù.
Nhưng nói luôn dễ hơn với làm. Một dạo ngư dân đánh bắt cá ngừ đại dương chạy theo sản lượng đã nhập dàn đèn của Trung Quốc sản xuất để câu cá. Nếu câu theo kiểu truyền thống là câu giàn, tức mỗi ghe có nhiều cần thủ giăng ra giàn câu chờ cá ngừ đại dương đến cắn mồi. Thì câu đèn là dùng giàn đèn cao áp mua của Trung Quốc rọi xuống biển dụ cá đến ăn mồi câu. Câu đèn có số lượng cá cắn câu nhiều hơn nhưng chất lượng thịt cá không đạt chuẩn như câu giàn truyền thống. Lúc đầu cá ngừ đại dương câu đèn được thương lái mua nhiều để xuất sang Trung Quốc. Tuy nhiên về sau, họ không mua nữa hoặc mua theo kiểu ép giá. Hình như việc thu mua này để họ bán dàn đèn vài trăm triệu đồng. Bán đèn xong rồi thì việc mua cá cũng dừng lại!
Hiện nay ngư dân ở làng Phú Câu đa số câu bò gù theo cách truyền thống, những dàn đèn đã mua không còn được sử dụng. Như vừa nói, con cá bò gù đã “di cư” gần hết khỏi lãnh hải Việt Nam. Muốn tìm gặp cá ngừ đại dương, ngư dân có thể biết hoặc không biết cũng liều mình đi vào vùng biển nước khác để “câu trộm.” Hôm gặp tôi, anh Thiện khoe vừa lên tiệm vàng trên phố mua 1.000 đô la Mỹ để chuẩn bị cho chuyến ra khơi. Hỏi đi biển đem theo đô la Mỹ làm gì? Anh Thiện cười hồn nhiên, nụ cười của ngư dân truyền đời, nói: Để lỡ xui bị bắt thì hối lộ, ghe mình nghèo chỉ chuẩn bị được nhiêu đó thôi. Với 1.000 đô la Mỹ thì hối lộ được ai và nước nào nhận?
Bạn tôi hẹn cuối tuần đi nhậu hải sản, một nhà hàng của Nhật ở quận Nhất, Sài Gòn. Nhà hàng này có bán món sushi bò gù ăn sống, giá khá chát nhưng cũng không chát bằng mồ hôi cũng những ngư dân trên biển theo nguồn bò gù để mưu sinh.


