Nhà Lý, phần 3 – Thời kỳ suy vong

by Tim Bui
Nhà Lý - phần 3 Thời kỳ suy vong

LÝ THÀNH PHƯƠNG

Nhân Tông là vị Hoàng đế trị vì lâu dài nhất trong lịch sử Việt Nam, tuy nhiên ông không có con. Vì vậy, ông chọn trong các con em hoàng tộc một người để kế vị và chọn được Lý Dương Hoán, là con của người em Sùng Hiền Hầu, tức là cháu gọi ông bằng bác. Năm 1128, Lý Nhân Tông qua đời, hưởng thọ 63 tuổi, Dương Hoán lúc đó mới 11 tuổi lên nối ngôi, tức là Lý Thần Tông. 

Từ Nhân Tông trở đi, trong bốn đời vua liên tiếp, người kế vị của nhà Lý đều nhỏ tuổi. Tuy việc cai trị bên ngoài chưa có nhiều ảnh hưởng trong thời kỳ đầu nhưng trong cung đình đã chịu ảnh hưởng trực tiếp vì sự tranh chấp quyền lực của những người tham gia nhiếp chính.

Thời Lý Thần Tông, các đại thần giúp vua gồm Thái sư Lê Bá Ngọc, Thái phó Dương Anh Nhĩ, Thái úy Lý Công Bình, Gián nghị đại phu Mâu Du Đô, Điện tiền chỉ huy sứ Lý Sơn,… đều là những người có năng lực, được Nhân Tông tin tưởng giao trọng trách nên thời đại Thần Tông cai trị, nước Đại Việt vẫn giữ được ổn định.

Năm 1138, Lý Thần Tông qua đời khi mới 23 tuổi, trị vì được 10 năm. Trước đây Thần Tông đã lập con trưởng là Lý Thiên Lộc làm Thái tử. Nhưng Cảm Thánh phu nhân cùng Phụng Thánh phu nhân, Nhật Phụng phu nhân đã dùng tiền hối lộ hoạn quan Từ Văn Thông mà cho vào gặp Thần Tông, xui vua bỏ thái tử Thiên Lộc. Thần Tông nghe theo, bèn lập con nhỏ là Thiên Tộ làm Hoàng thái tử, giáng Thiên Lộc xuống làm Minh Đạo vương. Lý Thiên Tộ khi đó mới ba tuổi lên ngôi, tức là Lý Anh Tông.

Cảm Thánh phu nhân Lê thị trở thành Hoàng thái hậu. Bà trọng dụng tình nhân Đỗ Anh Vũ – người em ruột của Đỗ thái hậu và là cháu gọi Lý Thường Kiệt bằng cậu – cho làm nhiếp chính. Việc đó khiến nhiều đại thần, gồm Điện tiền chỉ huy sứ Vũ Đái, Phò mã Dương Tự Minh cùng một số thân vương nhà Lý bất bình và làm binh biến bắt Anh Vũ, nhưng không quyết đoán giết ông. Vì vậy Anh Vũ chỉ bị đày làm Cảo điền nhi – cày ruộng. 

Không lâu sau, Thái hậu cố nghĩ làm thế nào để phục hồi chức nhiệm cho Anh Vũ, mới nhiều lần mở hội lớn để xá cho tội nhân. Anh Vũ được mấy lần xá tội, lại làm Thái úy phụ chính như cũ, càng được yêu dùng hơn. Đỗ Anh Vũ tìm cách trả thù. Anh Tông còn nhỏ, chuẩn tâu theo Anh Vũ, do đó những người tham gia binh biến đều bị giết hoặc đi đày.

Năm 1158, Đỗ Anh Vũ qua đời. Tô Hiến Thành, được thăng làm Thái úy. Hiến Thành giỏi việc dụng binh, lại là người chính trực, chuyên tâm tuyển chọn quân lính, biên giới nhiều lần bình định Chiêm Thành , Ai Lao.

Năm 1174, nhà Lý lại xảy ra việc thay ngôi thái tử. Thái tử là Lý Long Xưởng gian dâm với cung phi, làm chuyện thất đức nên bị phế truất làm Bảo Quốc vương. Anh Tông lập người con trai nhỏ là Lý Long Cán, con của một cung phi là cháu gái Đỗ Anh Vũ, làm Hoàng thái tử. Tô Hiến Thành làm Nhập nội kiểm hiệu thái phó bình chương quốc trọng sự, tước Vương, được giao phụ chính giúp người kế vị.

Năm 1175, Anh Tông qua đời khi mới 40 tuổi, trị vì được 36 năm. Thái tử còn nhỏ tuổi lên ngôi, sử gọi là Lý Cao Tông. Từ đây nhà Lý bắt đầu con đường suy vong.

Thời kỳ suy vong

Lý Cao Tông lên ngôi khi mới ba tuổi, mẹ là Đỗ phu nhân trở thành Chiêu Thiên Chí Lý hoàng thái hậu, Tô Hiến Thành được giao cho việc kèm cặp phụ chính.

Khi Cao Tông mới lên sáu tuổi thì Thái úy Tô Hiến Thành qua đời. Lý Cao Tông trưởng thành chỉ thích chơi bời, cho mua bán chức tước, khiến xã hội bất ổn, bọn bất tài cứ có nhiều tiền là làm quan gây phiền nhiễu cho dân chúng. Nhiều thủ lĩnh địa phương nhân lúc triều đình trung ương suy yếu cũng ngầm xây dựng lực lượng nổi dậy.

Loạn Quách Bốc 

Có lần lực lượng nổi loạn của Quách Bốc đánh vào kinh thành. Hoàng tử Lý Hạo Sảm (hay còn gọi là hoàng tử Sảm) phải chạy về Hải Ấp, được Trần Lý cùng Phạm Ngu là một học giả người vùng Diêu Hào lập làm minh chủ. Hạo Sảm được sắp xếp kết hôn với con gái của Trần Lý là Trần Thị Dung, và ban chức cho những người trong phe họ Trần như Trần Lý, Phạm Ngu và Tô Trung Từ (cậu của Trần Thị Dung).

Cao Tông nghe tin Thái tử Sảm tự ý lập triều đình riêng ở Hải Ấp, cho là chống lại mình nên cử Phạm Du đang huấn luyện binh sĩ ở vùng Hồng mà đi đánh. Nhưng Phạm Du mải tư thông với Thiên Cực công chúa, nên đến trễ, bị thuộc hạ của Thái tử Sảm (thực chất là thuộc hạ họ Trần) mai phục và bắt giết. Sau đó, Trần Lý và em vợ là Tô Trung Từ đứng đầu cầm quân đánh đến kinh sư, đánh bại Quách Bốc và đồng đảng, dẹp tan loạn Quách Bốc.

Đây là khởi điểm của họ Trần tham gia vào chính quyền nhà Lý và sau này có cơ hội để nhà Trần thoán ngôi nhà Lý.

Bất lực trong đại loạn

Cao Tông được rước về kinh thành Thăng Long. Không lâu sau, năm 1210, Cao Tông qua đời lúc 38 tuổi. Thái tử Sảm lên ngôi, tức Lý Huệ Tông, lúc ấy mới 16 tuổi. Lúc bấy giờ triều đình nhà Lý trải qua một thời kỳ đại loạn, cuối cùng nhờ công của con cháu của Trần Lý mà giang sơn lại được thống nhất. Nhưng sau các biến cố đó, thế lực họ Trần đã trở nên rất mạnh và chuẩn bị thay ngôi họ Lý.

Họ Trần nắm quyền

Cuối năm đó, mùa Đông, Thuận Trinh phu nhân (Trần Thị Dung) được sắc phong làm Hoàng hậu. Huệ Tông phong chức cho một loạt người họ Trần: Tự Khánh làm Thái uý phụ chính, anh trai Tự Khánh là Trần Thừa làm Nội thị phán thủ, tước Liệt hầu, Phùng Tá Chu làm Quan nội hầu; con trưởng của Trần Thừa là Trần Liễu làm Quan nội hầu, con trưởng của Thái úy Tự Khánh là Trần Hải làm Hiển Đạo vương. 

Lúc này, Huệ Tông thường phát điên, tự xưng là Thiên tướng, cắm cờ ở búi tóc, cầm giáo và khiên múa may, đến khi mệt thì uống rượu ngủ li bì. Chính sự không quyết đoán, giao phó cả cho Trần Tự Khánh. Quyền lớn trong nước dần dần về tay họ Trần.

Năm 1233, Thái úy Trần Tự Khánh qua đời, Huệ Tông phong Trần Thừa làm Phụ quốc Thái uý, cho đặc quyền khi vào chầu không xưng tên. 

Chiêu Hoàng nhường ngôi

Năm 1224, bệnh của Huệ Tông ngày càng tăng mà không có con trai để nối nghiệp lớn, các công chúa đều được chia các lộ làm ấp thang mộc, uỷ nhiệm cho một mình chỉ huy sứ Trần Thủ Độ quản lĩnh các quân điện tiền hộ vệ cấm đình. Con gái thứ 2 là công chúa Chiêu Thánh được lập làm Hoàng thái nữ, rồi làm Hoàng đế lúc đó được 10 tuổi, sử gọi là hoàng đế Lý Chiêu Hoàng. Huệ Tông truyền ngôi xong trở thành Thái thượng hoàng, rồi xuất gia ở chùa Chân Giáo. 

Điện tiền chỉ huy sứ Trần Thủ Độ coi giữ mọi việc quân sự trong ngoài thành thị. Trần Cảnh (mới 10 tuổi), con trai thứ của Trần Thừa được phong làm Chính thủ, cho hầu hạ gần gũi với Chiêu Hoàng, được Chiêu Hoàng yêu mến. 

Dưới sự sắp đặt của Trần Thủ Độ, Chiêu Hoàng lấy Trần Cảnh làm chồng, rồi đến tháng 12 âm lịch năm 1225 (đầu năm 1226), ngày mồng một Mậu Dần, Chiêu Hoàng mở hội lớn ở diện Thiên An, trút bỏ áo ngự mời Trần Cảnh lên ngôi Hoàng đế. Cha Trần Cảnh là Trần Thừa được tôn làm Thái thượng hoàng.

Ngôi nhà Lý chính thức chuyển sang nhà Trần. Nhà Lý kéo dài 216 năm với 9 đời vua. Không lâu sau, thượng hoàng Huệ Tông bị Trần Thủ Độ bức tự sát ở chùa Chân giáo.

Nhổ cỏ tận gốc

Sau khi Trần Thái Tông lên ngôi, nhà Trần phế Thượng hoàng nhà Lý ra ở chùa Chân Giáo, gọi là Huệ Quang đại sư. Trước đây, thượng hoàng ra chơi ở chợ Đông, dân chúng tranh nhau tới xem, có người than khóc. Thủ Độ sợ lòng người nhớ vua cũ, sinh biến loạn, nên mới dời vua tới chùa Chân Giáo, nói để phụng nhưng thực ra để dễ bề giữ chặt. Có lần Thượng hoàng nhổ cỏ ở sân chùa, Thủ Độ đến chơi liền nói:”Nhổ cỏ thì phải nhổ cả rễ sâu.” Thượng hoàng nói:”Điều ngươi nói ta hiểu rồi.” Đến tháng 8, Thủ Độ sai người đưa hương hoa đến cho thượng hoàng Huệ Tông, nói: “Thượng phụ sai thần đến mời.” Thượng hoàng nhà Lý nói: “Ta tụng kinh xong sẽ tự tử.” Nói rồi vào buồng ngủ khấn rằng: “Thiên hạ nhà ta đã vào tay ngươi, ngươi lại còn giết ta, ngày nay ta chết, đến khi thác con cháu ngươi cũng sẽ bị như thế.” Bèn thắt cổ tự tử ở vườn sau chùa.

Thủ Độ ra lệnh cho các quan đến khóc, khoét tường thành phía nam cửa, đưa linh cữu ra phường Yên Hoa để thiêu, chứa xương vào tháp chùa Bảo Quang, tôn miếu hiệu là Huệ Tông. Giáng hoàng hậu của Huệ Tông tức Trần Thị Dung, làm Thiên Cực công chúa, gả cho Trần Thủ Độ, cho châu Lạng làm ấp thang mộc.

Năm 1232, nhân lúc tông thất nhà Lý về quê ngoại ở làng Hoa Lâm (nay là xã Mai Lâm, huyện Đông Anh, Hà Nội) làm lễ cúng tổ tiên, Thủ Độ đào ngầm hố sâu, làm nhà bên trên, đợi khi mọi người uống rượu say, giật máy chôn sống hết.

Sau này Trần Thủ Độ còn ra lệnh bắt những người sống sót phải đổi sang họ Nguyễn và một số họ khác để trừ tuyệt hậu họa. Những người họ Lý sau này là những người Hoa Hạ di dân từ Trung Quốc đến Việt Nam sau thời kỳ nhà Lý.

Lãnh thổ Việt Nam dưới thời nhà Lý

Địa giới phía bắc nước Đại Việt thời Lý ban đầu bao gồm một phần nhỏ của tỉnh Quảng Tây (Trung Quốc), vùng bắc Bộ Việt Nam hiện nay và vùng Thanh-Nghệ-Tỉnh. 

Năm 1069, dưới thời vua Lý Thánh Tông  biên giới đã mở rộng về phía nam đến tỉnh Quảng Bình và Quảng Trị hiện nay. Cương vực này được duy trì ổn định tới khi triều Lý kết thúc.


Cùng một tác giả: https://www.toiyeutiengnuoctoi.com/tren-dau-ngon-song/

You may also like

Verified by MonsterInsights