Phú Nhuận thời thơ ấu của tôi, kỳ 4

by Tim Bui
Phú Nhuận thời thơ ấu của tôi, kỳ 4

LÊ NGUYỄN 

Thập niên 1940, khu Ngã tư Phú Nhuận còn thưa thớt nhà cửa. Khoảnh đất rộng về sau là “khu cư xá Chu Mạnh Trinh” lúc ấy chỉ là một vùng đất trũng, bỏ trống, có một ngôi mả cổ rất to, thanh thiếu niên thường ra đó đá banh, người dân từ đường Chi Lăng đi đến đường Võ Di Nguy không phải bọc lên Ngã tư Phú Nhuận, mà thường đi tắt qua “sân banh” tự phát này.

Phải chờ đến sau cuộc di cư vĩ đại vào những năm 1954-1955, vùng Phú Nhuận mới đông dần lên, với sự xuất hiện của trường trung học Chu Mạnh Trinh ở gần Ngã  tư Phú Nhuận, mà người viết bài này có vinh dự nhập học ngay vào ngày khai trương của trường 1/7/1955, và mài đũng quần ở đó suốt bốn năm.

Người làm chủ ngôi trường tư thục này là thầy Phan Đương, nghe đâu có một cơ sở làm nước mắm tại Phan Thiết. Thầy quen biết khá thân với hai người thầy họ Phan khác vốn là con trai nhà cách mạng Phan Thành Tài (thập niên 1900-1910) là Phan Ngô, Hiệu trưởng trường Tân Thanh ở Tân Định, và Phan Thuyết, hiệu trưởng trường Đạt Đức ở trên đường Chi Lăng, đối diện với hồ tắm Chi Lăng. Có lẽ nhờ ở sự thân thiết giữa các thầy mà đội bóng bàn trường Chu Mạnh Trinh thường đến so vợt cùng đội bóng bàn trường Đạt Đức.

Tôi khó quên hình ảnh ngày 1/7/1955, ngày khai trương trường trung học tư thục Chu Mạnh Trinh, bởi vì đó cũng là ngày đầu tiên trong cuộc đời một học sinh trung học như tôi. Trường lúc đó chỉ có ba lớp: một lớp Đệ lục (nay là lớp 7), một lớp Đệ thất (trong số học sinh có tôi) và một lớp Nhất. Mặt tiền của trường chỉ là một căn nhà hẹp có lầu, ngó ra đường Võ Di Nguy. Trường thuê (hay mua?) thêm một căn nhà khác phía sau để làm phòng học, nối liền với căn nhà phía trước bằng một lối đi rộng đủ để đặt một cái bàn ping pong. Về sau, tôi chơi ping pong vào hạng kha khá là nhờ cái bàn này.

Căn nhà phía sau kể trên là căn đầu tiên của một dãy nhà ở kéo dài, chạy song song với đường Chi Lăng, về sau trở thành một thành phần của khu “cư xá Chu Mạnh Trinh”. Người ta mượn tên trường ở cạnh khu cư xá để dễ định vị chứ giữa trường Chu Mạnh Trịnh với khu cư xá đó không có mối quan hệ gì. 

Vì khi khai trương, trường chỉ có mấy lớp nên nhân viên cũng rất hạn chế, chỉ có một vị Giám thị người miền Bắc, đầu hói, thấp đậm, một thầy thơ ký trẻ, người cũng thấp như ông Giám thị, tính hiền lành, chữ viết đẹp và chân phương. Tất cả hồ sơ, học bạ của trường vào thời kỳ này đều thể hiện bằng chữ viết của thầy. Thầy được ông Hiệu trưởng cho ở luôn tại trường cùng người vợ trẻ, cao to hơn thầy, gương mặt bặm trợn hơn và thường mặc những bộ y phục màu trắng toát, khá mỏng mảnh. Tất nhiên, đối với tuổi học trò 13-14 như chúng tôi, sự mỏng hay dày của những bộ trang phục đó không có một ý nghĩa nào.

Về ban giảng huấn của trường Chu Mạnh Trinh vào những năm đầu, khá lâu sau, mình mới biết rằng có nhiều người thuộc thành phần cựu kháng chiến. Các từ chiến sĩ, kháng chiến thời đó đối với tụi mình thiêng liêng, cao quý lắm, không như bây giờ, báo đăng tin nhan nhản: “chiến sĩ A đánh dân, chiến sĩ B nhận tiền mãi lộ …”. Mỗi khi xem kết quả kỳ thi lục cá nguyệt (học kỳ) ghi trong sổ học bạ, mình lấy làm lạ, sao không thấy tên một số giáo sư dạy mình, như thầy Nguyễn Văn Đ, thầy P.C., mà thay vào đó, người dạy là Phan Đương (hiệu trưởng) hay một tên lạ hoắc, lạ huơ nào.

Sau này, lớn khôn hơn, mình đoán (và tin là mình đoán đúng) là các vị có dạy mà không có tên là vì họ không đáp ứng được điều kiện về văn bằng (đại khái dạy bậc trung học đệ nhất cấp tối thiểu phải có bằng trung học đệ nhất cấp (THĐIC), tức học hết lớp 9 bây giờ], dạy bậc trung học đệ nhị cấp (THĐIIC) phải tối thiểu có bằng Tú tài), song họ là những cựu kháng chiến, có kiến thức về môn dạy nên được thầy Phan Đương thông cảm, thu nhận cho dạy. Năm mình học Đệ tứ (1958-1959), người cựu kháng chiến Tạ Thanh Sơn, tác giả bản nhạc “Nam Bộ kháng chiến,” dạy môn Sử Địa, rất yêu thương lớp mình. 

Giữa năm 1959, lớp mình quây quần trên sân trường nữ trung học Lê Văn Duyệt (Bà Chiểu) nghe đọc kết quả kỳ thi viết THĐIC, thầy Tạ Thanh Sơn, đứng gần đó tự bao giờ, theo dõi và nhìn đám học trò của mình bằng ánh mắt trìu mến. Mình không bao giờ quên ánh mắt này, và đến bây giờ, mỗi khi nghe bài hát của thầy “Mùa Thu rồi, ngày hăm ba, ta ra đi theo tiếng kêu sơn hà nguy biến …”, mình ứa nước mắt. Thế hệ cha chú của mình yêu nước vô điều kiện, hy sinh cả một thời thanh xuân cốt để giành lại độc lập cho đất nước, có để tâm gì đến chủ nghĩa này, chủ nghĩa nọ, Cộng sản đệ tứ hay đệ tam!

Năm 1958, lớp Đệ Tứ đàn anh, đàn chị của mình thi THĐIC, hình như thất bại vì số người đậu rất ít. Qua năm sau (1959), lớp mình thi, trong 27 thí sinh, có 7 người đậu. Vậy mà ngay sau khi nghe tin, ông Hiệu trưởng Phan Đương vui như mở cờ trong bụng. Ông chạy lên chạy xuống lầu, nói cười tíu tít, tự tay lấy phấn viết tên 7 tân khoa, để ngay trước cửa trường. Đủ biết ngày xưa thi cử khó khăn như thế nào, với một trường tư thục, tỉ lệ thi đậu chỉ 25% đủ khiến cho người hiệu trưởng cảm thấy sung sướng và hãnh diện! 

Mình rời trường Chu Mạnh Trinh năm 1959 với mảnh bằng THĐIC [1] trong tay, vui cái vui của một con nhà nghèo may mắn trong học tập. Song, bốn năm học ở trường cũng để lại cho mình một kỷ niệm buồn. Năm Đệ ngũ (1957-1958), lớp có một chị khá lớn tuổi, so với lớp tuổi phổ biến lúc ấy là 13-14 tuổi. Tạm gọi chị là X. Chị là con một vị Đại tá, nhà ở gần Ngã tư Phú Nhuận. Ở thời điểm đó, Đại tá là một cấp bậc rất cao, ông Dương Văn Minh vào năm 1956 còn ở cấp bậc này, chỉ sau chiến dịch Rừng Sác mới được thăng Thiếu tướng.

Bỗng một hôm, đám học trò trong lớp xì xào về chuyện chị “thân mật” hơn mọi người với thầy N.H., bút danh HN, dạy môn Sử Địa. Chuyện bé xé ra to, chuyện ít xít lên nhiều, song cũng vẫn còn trong giới hạn của một “tin đồn nhảm.”

Một buổi chiều tan học, bạn bè đi về hết, chỉ còn lại tôi và đứa bạn thân (Tô Minh Tâm, trước 1975 là giáo sư Triết trường trung học Cường Để, Qui Nhơn), tôi lại vừa nghĩ ra mấy câu thơ chọc phá. Hào hứng trước khả năng “tức cảnh sinh tình” của mình, với sự chứng kiến của Tâm, tôi viết lên bảng 6 câu thơ vừa nghĩ ra:

Trăm năm trong cõi người ta,
————————————(quên)
Chàng ơi, em quá yêu chàng,
Mà em chẳng sợ đàng tràng cách xa,
Chỉ sợ là sợ người ta,
Sợ là sợ cái lũ ma học trò!

Tác giả bài thơ chỉ nghĩ đơn giản là mình “thi hóa” một tin đồn cho vui, đâu biết rằng trò đùa đó đã dẫn đến một hậu quả thật đáng buồn.

Sáng hôm sau, bạn bè vào lớp, đọc mấy câu thơ trên bảng, chả cần tìm hiểu ai là tác giả, đã nổi lên những tràng cười nói rôm rả. Không khí náo nhiệt chưa từng có, trong khi đó, chị X như người mất hồn. Chị ôm mặt khóc nức nở, khóc đến sưng đỏ cả đôi mắt. Rồi chị ôm cặp ra về, vĩnh viễn không trở lại trường Chu Mạnh Trinh nữa. Cũng từ đó, thầy NH cũng không tới trường luôn, không biết đó là quyết định của riêng thầy hay của ông Hiệu trưởng Phan Đương. Cũng có thể cả hai.

Đến nay, sau 66-67 năm, mỗi lần nhớ lại bi kịch này, lòng mình vẫn ngập tràn niềm ân hận, thấy mình có lỗi nhiều đối với thầy NH và chị X. Khi đó, mối quan hệ giữa họ chưa biết sẽ như thế nào, và nếu không có bài thơ, không chắc là câu chuyện vẫn tiếp tục êm xuôi, song dù nghĩ vậy, mình vẫn ân hận rất nhiều.

(còn tiếp)

Chú thích

(1) Hình như cho đến trước năm 1968, học sinh ở miền Nam phải thi nhiều kỳ. Sau lớp Nhất [tức lớp 5 tiểu học ngày nay] thì phải thi để vô trường công. Ai không thì đậu thì học trường tư. Học tới Đệ Tứ, tức lớp 9 ngày nay phải thi tốt nghiệp Trung học đệ nhất cấp, cái bằng này hồi xưa nữa kêu là bằng Thành Chung. Vượt qua cửa ải này mới được học Trung học đệ Nhị cấp tức lớp 10 và lớp 11. Xong lớp 11, kêu là Đệ Nhị, thì thi Tú tài 1. Đậu Tú tài 1 mới được học Đệ nhất [lớp 12] rồi thì Tú tài 2. Có bằng Tú tài thì tương lai rộng mở hơn. Nếu đi lính, có Tú tài 1 thì vô trường sĩ quan Thủ Đức, còn Tú tài 2 thì vô trường sĩ quan Đà Lạt. Còn chỉ có bằng Thành chung thì chỉ được vô trường Hạ sĩ quan Đồng Đế ở Nha Trang. Do đó mới có câu “rớt tú tài anh đi trung sĩ…”. Tới năm 1973 thì chính quyền VNCH bỏ bớt các kỳ thi Trung học đệ nhất cấp, bỏ thi Tú tài 1 và 2, mà chỉ thi Tú tài một lần thôi và không thi như cũ mà thi bằng hình thức “chọn câu đúng” được gọi là Tú tài IBM. Người biên tập bài này may mắn không phải thi nhiều cấp mà chỉ thi một lần là Tú tài IBM. Và cuộc thi Tú tài này đã chết non ngay sau ngày 30/4/1975! Buồn!

C:\Users\win 10\Downloads\pn 1.jpg
Bảng hiệu trường Chu Mạnh Trinh

C:\Users\win 10\Downloads\pn 2.jpg
C:\Users\win 10\Downloads\pn 3.jpg
C:\Users\win 10\Downloads\pn 4.jpg

You may also like

Verified by MonsterInsights