TU CHÍNH ÁN 19 – Quyền đi bầu & cuộc tranh đấu miệt mài cho dân quyền trong chế độ dân chủ

by Tim Bui
Quyền đi bầu & cuộc tranh đấu miệt mài cho dân quyền trong chế độ dân chủ

TRÙNG DƯƠNG

Vào đầu mùa Hè năm nay, một nhóm, đa phần là phụ nữ, thuộc cả hai đảng Dân chủ và Cộng hòa, gồm các thành viên trong giới báo chí, nghệ thuật trình diễn, nhà viết truyện phim, cố vấn chính trị, sử gia, và chuyên viên nhiều ngành khác đã họp nhau lại thành lập tổ chức chính trị có tên là  Dự án Seneca (Seneca Project). 

Dự án Seneca có mục đích vận động cử tri đi bầu trong kỳ bầu cử ngày 5 tháng Mười năm nay để bảo vệ nhân quyền của nữ giới, trong đó có quyền bỏ phiếu và quyền làm chủ thân xác mình, mà họ cho là đang bị giới lãnh đạo “phe bảo thủ” đe dọa hoặc đã lấy đi, như quyền tuyệt đối không được phá thai, ảnh hưởng tới nhiều vấn đề sức khỏe khác của nữ giới, qua phán quyết bãi bỏ án lệ Roe v. Wade của Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ hai năm trước đây. Án lệ Roe v. Wade là một án lệ đã thành luật từ cả trên nửa thế kỷ tại Hoa Kỳ.

Tại sao đặt tên nhóm là Seneca?

Bởi vì, “176 năm trước [năm 1848], hội nghị đầu tiên về quyền phụ nữ tại Seneca Falls, New York đã bùng lên một phong trào. Lòng dũng cảm và sức mạnh của những người phụ nữ tiên phong đó là nguồn cảm hứng cho tất cả chúng ta,” ban chủ trương Seneca Project tuyên bố trong một video tuyên ngôn về sự ra đời của nhóm. “Ngày nay, chúng ta tôn vinh di sản của họ bằng cách kiên cường chống lại […] cuộc chiến chống lại phụ nữ. Chúng ta sẽ không quay lại. Không bây giờ. Không bao giờ.”

Lịch sử dường như đang tái diễn, khi nhiều phụ nữ hiện nay đang cho là họ bị phe bảo thủ đang dồn nỗ lực đẩy họ trở lại quá khứ, qua việc tước dần những quyền tự do căn bản của mình, trong đó có quyền tự quyết về sinh sản kể cả phá thai khi cần phải làm như vậy, như trong trường hợp bị hãm hiếp hoặc bào thai khó sống sót, hoặc nếu giữ bào thai thì sẽ nguy hiểm cho sinh mạng người mẹ, hoặc ngay cả khi bị sảy thai. Những phụ nữ có quan điểm này thấy là “phe bảo thủ” muốn phụ nữ sống trong vòng tòng phục, chỉ biết có gia đình, bị lệ thuộc, không có cơ hội phát triển các tiềm năng để góp phần xây dựng xã hội. Với họ, cấm phá thai là một trong những nỗ lực đó, và là bước đầu để kiểm soát nữ giới.

Ngày 18/8/1920 là ngày Quốc hội Hoa Kỳ ban hành Tu Chánh Án 19 công nhận quyền đầu phiếu của phụ nữ Mỹ sau khi tiểu bang thứ 36 là Tennessee phê chuẩn Tu Chính Án 19, hội đủ số ba phần tư tiểu bang cần có theo Hiến pháp. 

Nhân ngày kỷ niệm này, những người di dân như chúng ta đã nhận nơi này làm quê hương vì không thể sống dưới chế độ độc đảng độc tài cộng sản, hãy cùng nhìn lại  cuộc tranh đấu kéo dài 72 năm để giành cho bằng được quyền bỏ phiếu của phụ nữ Mỹ, là quyền đương nhiên của người dân trong một nước dân chủ. Và tại sao đi bầu không chỉ là quyền công dân mà còn là một bổn phận để duy trì nền dân chủ quý báu ta hiện có, mà đồng chủng của ta ở quê nhà không có được cùng với nhiều nhân quyền khác.

Vài nét về Tu Chính Án thứ 19
Năm 1848, một số phụ nữ và nam giới đã gặp nhau tại Seneca Falls ở tiểu bang New York để thúc đẩy cuộc tranh đấu cho quyền đầu phiếu của phụ nữ. Hội nghị do các bà Elizabeth Cady Stanton, Lucretia Mott, Martha Wright, Mary Ann McClintock và Jane Hunt tổ chức đã đánh dấu sự khởi đầu của phong trào đòi quyền bầu cử chính thức cho phụ nữ. Các tham dự viên gồm cả hai giới của phong trào đã có bài phát biểu và gửi đơn thỉnh cầu lên Quốc hội, gây áp lực buộc các viên chức chính phủ công nhận quyền bầu cử của phụ nữ. 

Các bà tiên phong của phong trào đòi quyền phụ nữ đầu phiếu như Stanton, Mott và Susan B. Anthony—một người đã dành trọn đời vận động cho quyền bầu cử — đã không còn sống để chứng kiến ​​và thực thi quyền bầu cử. 

Tuy nhiên, các vị nữ lưu này cũng đã giúp mở đường cho những người ủng hộ quyền bầu cử trong các thế hệ kế tiếp như Alice Paul, Ida B. WellsMabel Ping-Hua Lee. Cuộc tranh đấu của họ thoạt đầu đã gặp nhiều khó khăn cam go, nhạo báng, chống đối và cả tù tội. Đài truyền hình PBS có một bộ phim tài liệu dài bốn tiếng với nhiều thông tin chi tiết và hình ảnh về cuộc tranh đấu dài 72 năm cho quyền bỏ phiếu của phụ nữ tại https://www.pbs.org/wgbh/americanexperience/films/vote/ 

Dù vậy, hồi ấy, nhóm phụ nữ lãnh đạo phong trào đòi quyền bầu cử cho phụ nữ không phải lúc nào cũng thống nhất. Một số người ủng hộ quyền bầu cử cho rằng chỉ phụ nữ da trắng mới được có quyền bầu cử. Những người khác như Charlotte Forten Grimke, Mary Ann Shadd CaryMary Church Terrell cho rằng phụ nữ da màu cũng phải có quyền tham gia bầu cử để chọn các viên chức chính phủ.

Tu chính án hiến pháp đầu tiên nhằm đảm bảo quyền bỏ phiếu cho phụ nữ được trình lên Quốc hội vào năm 1878. Nhưng dự luật này đã thất bại. Đến năm 1919, những người ủng hộ quyền bầu cử trình lên quốc hội một tu chính án khác nhằm đảm bảo quyền bỏ phiếu của phụ nữ. Tu chính án thứ 19 đã được cả Hạ viện và Thượng viện thông qua. Các tiểu bang sau đó đã phê chuẩn Tu chính án thứ 19 vào năm 1920, chính thức công nhận quyền bỏ phiếu trình lên quốc hội.

Không phải phụ nữ nào cũng có quyền bỏ phiếu
Mặc dù nhiều phụ nữ có thể đi bỏ phiếu, nhưng TCA 19 không trao quyền bỏ phiếu cho tất cả phụ nữ. Phụ nữ da màu, người di cư và phụ nữ có lợi tức thấp thường bị ngăn cản bỏ phiếu do luật pháp và áp lực xã hội. Ví dụ, phụ nữ gốc bộ lạc Mỹ không được coi là công dân Hoa Kỳ cho đến năm 1924 và không được phép bỏ phiếu. Phụ nữ bị kết án phạm tội cũng không được phép bỏ phiếu, ngay cả khi họ đã hoàn thành bản án. 

Sau khi TCA 19 được phê chuẩn vào năm 1920, những người ủng hộ quyền bầu cử cho phụ nữ như Alice Paul biết rằng công việc của họ vẫn chưa hoàn thành. Mặc dù chính phủ công nhận quyền bỏ phiếu của phụ nữ, nhưng nhiều phụ nữ vẫn phải đối mặt với sự phân biệt đối xử. Bà Paul và các thành viên khác của Đảng Phụ nữ Quốc gia đã soạn thảo Tu chính án về Quyền bình đẳng (Equal Rights Amendment). Nếu được phê chuẩn, tu chính án này sẽ đảm bảo quyền bình đẳng cho tất cả mọi người bất kể giới tính. Tu chính án về Quyền bình đẳng đã được cả hai viện của Quốc hội phê chuẩn vào những năm 1970 nhưng không nhận được sự ủng hộ đầy đủ từ các tiểu bang. Tu chính án này cho tới nay vẫn chưa được phê chuẩn vào Hiến pháp. 

Dù vậy, giới ủng hộ quyền phụ nữ đã đạt được tiến bộ trong việc thông qua các luật khác sau năm 1920. Quốc hội đã thông qua Đạo luật Bình đẳng tiền lương (Equal Pay Act) năm 1963, khiến việc trả lương cho phụ nữ ít hơn khi làm cùng công việc với nam giới nay trở thành bất hợp pháp. Một năm sau, Quốc hội đã thông qua Đạo luật Dân quyền (Civil Rights Act) 1964. Đạo luật này thường gắn liền với Phong trào Dân quyền vì nó cấm các nhà tuyển dụng nhân viên phân biệt đối xử với một cá nhân dựa trên chủng tộc của họ. Đạo luật này cũng nêu rõ rằng các nhà tuyển dụng, không được phân biệt đối xử với người xin việc dựa trên giới tính của họ. Trước khi có Đạo luật Dân quyền năm 1964, các nhà tuyển dụng có thể chọn không tuyển dụng một người nữ vì giới tính của họ.

Nguyên văn nội dung của TCA 19:
Quốc hội Hoa Kỳ khóa 66;
Tại Phiên họp đầu tiên, Bắt đầu và tổ chức tại Thành phố Washington vào Thứ Hai, ngày mười chín tháng Năm, năm một nghìn chín trăm mười chín.

NGHỊ QUYẾT CHUNG
Đề xuất sửa đổi Hiến pháp mở rộng quyền bầu cử cho phụ nữ.

Được giải quyết bởi Thượng viện và Hạ viện Hoa Kỳ tại Quốc hội họp (hai phần ba của mỗi Viện đồng ý), rằng điều khoản sau đây được đề xuất như một sửa đổi Hiến pháp, có hiệu lực về mọi mặt và mục đích như một phần của Hiến pháp khi được cơ quan lập pháp của ba phần tư các Tiểu bang phê chuẩn. 

“ĐIỀU ————. “

Quyền bỏ phiếu của công dân Hoa Kỳ sẽ không bị Hoa Kỳ hoặc bất kỳ Tiểu bang nào từ chối hoặc hạn chế vì lý do giới tính.
Quốc hội sẽ có thẩm quyền thực thi điều khoản này bằng luật pháp phù hợp.”
[Đồng ký tên:
Chủ tịch Hạ viện, Phó Tổng thống Hoa Kỳ và Chủ tịch Thượng viện]

Tu Chính Án thứ 19 không đảm bảo rằng tất cả phụ nữ và cả nam giới ở Hoa Kỳ đều có thể bỏ phiếu. Việc đảm bảo quyền thiết yếu này là một cuộc đấu tranh lâu dài, và đối với một số sắc dân, điều đó vẫn tiếp tục cho đến thời hiện đại. Như vào năm 1924, Đạo luật Công dân Da Đỏ (Indian Citizenship Act—Indian ở đây không có nghĩa là Ấn độ) công nhận các người gốc bộ lạc, tức Native American, là công dân Mỹ. [Sở dĩ người Da Đỏ được gọi là Indian vì sự lầm lẫn của nhà thám hiểm Columbus trong khi tìm đường đi Ấn Độ vào cuối thế kỷ 15, khi tàu lạc tới Bắc Mỹ, ông tưởng là Ấn Độ, nên người Da Đỏ thành Indian từ đó.] 

Năm 1943, Đạo luật Magnuson công nhận người Hoa ở Mỹ là công dân và do đó được quyền bầu cử. Đạo luật loại trừ người Hoa năm 1882 trước đây đã ngăn cản điều này. Và mãi tới năm 1962, tiểu bang Utah mới chịu trả lại quyền cho người Mỹ gốc bộ lạc.

Trước năm 1965, người Mỹ gốc Phi châu, tức Da đen, và người Mỹ gốc bộ lạc tiếp tục phải đối mặt với việc bị loại khỏi quyền bầu cử do các cơ chế như thuế thăm dò ý kiến, kiểm tra khả năng đọc và viết và cả đe dọa. Đạo luật về Quyền bầu cử năm 1965 đã loại bỏ nhiều luật lệ ngăn chặn việc thì hành quyền đầu phiếu. 

Dù vậy, ta hiện vẫn thấy một số tiểu bang với đa số trong giới lãnh đạo thuộc phe bảo thủ, phần lớn là người Da trắng, vì lý do nào vẫn tìm mọi cách để ngăn trở cử tri đi bầu. Như thế đủ biết quyền bỏ phiếu quan trọng như thế nào. Và chúng ta càng cần biết ơn những nhà tranh đấu bảo vệ quyền căn bản này của người dân bất kể giới tính trong một chế độ dân chủ, và trân quý giữ gìn quyền bầu cử.

[TD2024/08]

You may also like

Leave a Comment

Verified by MonsterInsights