Vui buồn đời kẹo kéo

by Tim Bui
Vui buồn đời kẹo kéo

HÒA AN

Những ai hay ngồi quán nhậu đêm ở Sài Gòn, đều dễ dàng bắt gặp hình ảnh những chiếc xe kẹo kéo với những bản nhạc xập xình, tân thời rong ruổi trên khắp nơi. Cuối tuần, mấy anh em bạn hữu ở quán trên đường Nguyễn Thị Thập, quận 7 làm vài chai bia giải khuây. Vừa kéo ghế chưa kịp ngồi thì nghe ông khách ở bàn cạnh bên cao hứng: “Nay vui thế này phải chi có thằng Mai-cồ kẹo kéo nhảy coi chơi!” Trò giải trí ngắn hạn mua vui chốc lát cho những dân nhậu đã ngà ngà say ấy cũng chính là nghề mưu sinh của biết bao con người. 

Có mấy ai biết được đằng sau những bước nhảy vui nhộn, tiếng hát thênh thang, nụ cười toe toét là những cuộc đời nhọc nhằn, cơ cực, thấm đẫm mồ hôi, nước mắt.

Nghề sống nhờ thời tiết và quán nhậu

Tuy nhiên, thời huy hoàng của kẹo kéo với dăm ba bản nhạc trẻ cũng khiến những “thượng đế” quán nhậu chóng chán. Để kiếm chén cơm, người bán kẹo phải nghĩ ra nhiều chiêu để thay đổi khẩu vị cho thực khách. Từ đó, từng rộ lên phong trào nhảy điệu Mai-cồ của các nam thanh niên làm nghề này.

Họ không những “bắt chước” điệu nhảy mà còn diện trang phục, xoắn tóc và có điệu bộ y hệt ông vua nhạc Pop Mai-cồ Giắc-xơn (Michael Jackson). Vì thế, các đệ tử lưu linh đặt cho họ cái biệt danh gắn liền với nghề nghiệp: “Mai-cồ kẹo kéo.” Sài Gòn hiện có khá đông thanh niên làm nghề kẹo kéo theo hình thức này, mỗi người có một địa bàn riêng và theo đó họ cũng được gắn cái nickname Mai-cồ phía trước tên thật, như Mai-cồ Điền, Mai-cồ Nhã, Mai-cồ Bi (quận 7), Mai-cồ Tràm (quận Gò Vấp)…

Theo tìm hiểu và cũng theo lời ông Trần Vương Long, một trong những tay “bầu” kẹo kéo làm nghề lâu năm và có tiếng ở Sài Gòn, điệu nhảy Mai-cồ này được manh nha từ rất lâu, người khởi xướng nó là Mai-cồ Điền, “đệ tử” ruột của ông Long.

Mai-cồ Điền và bước nhảy học theo Michael Jackson

Nghe mọi người gọi em là Mai-cồ kẹo kéo, vừa tự hào, vừa ngại… vì mọi người yêu quý mình mới đặt cho cái tên ấy, còn ông Michael Jackson là vua nhạc Pop, bước nhảy đẹp quá trời, em chỉ học lỏm mấy bước cơ bản thôi, rồi tự chế thêm chớ có làm được như ổng đâu mà dám mượn tên ổng,” Mai-cồ Điền thổ lộ.

Mai-cồ Điền tên thật là Hồ Thanh Điền, 29 tuổi, quê ở xã Phú Bình, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang. Sinh ra trong gia đình có 6 anh chị em, mà chẳng có bao nhiêu ruộng vườn, nên năm 15 tuổi Điền bỏ học lên Sài Gòn với hy vọng có thể làm gì đó kiếm tiền, thay đổi cuộc đời.

Sau hơn hai năm lăn lộn khắp các bến xe, ga tàu với đủ nghề lận lưng đắp đổi qua ngày: bán vé số, bán kem dạo… Điền bắt đầu thấy tắt hy vọng. Cơ duyên đẩy đưa, một lần Điền gặp xe kẹo kéo đi hát, bèn xin hát thử một bài góp vui. Thấy Điền có chất giọng khỏe lại mê ca hát, hoàn cảnh cơ cực nhưng có chí làm ăn nên anh Phạm Hoàng Thắng (còn gọi là Hải, chủ xe kẹo kéo) bèn rủ Điền theo nghề. Khoái chí vì thỏa ước vọng được ca hát, Điền gật đầu cái rụp và gắn bó với nghề kẹo kéo cho đến nay. 

Mê hát và hát sung vậy chớ lúc đầu vô nghề hát thấy… ngán, vì chưa quen. Mà kẹo kéo lúc ấy bán ngày, bán đêm mới có tiền. Vừa hát, vừa chạy, một ngày có khi hát tới ba bốn chục bài. Ban đầu phải học cách dựng thùng kẹo, không nó ngã lăn đùng ra, hư loa, hư máy thì khổ, rồi cách mời kẹo thế nào để người ta mua nữa,” Điền kể lại những ngày đầu theo nghề.

Vốn chỉ là nghề đắp đổi qua ngày nên sau khoảng hai năm Điền theo nghề thì anh Hải “giải nghệ.” Điền về với “bầu” Long từ đó. Thoạt nhìn, đây có vẻ là nghề dễ kiếm ăn nên số người ra nghề kẹo kéo ngày càng đông. Theo ông Long, hiện Sài Gòn có hơn hai mươi “bầu” kẹo kéo, mỗi “bầu” có từ vài thùng đến chẵn chục, còn người có thùng riêng thì lên đến cả trăm với đủ cách làm ăn khác nhau.

Hôm nào thời tiết đẹp, cứ tầm 6 – 7 giờ tối, trên các con đường nham nhở, ngổn ngang ổ gà của xóm lao động nghèo, các đệ tử của ông Long với những thùng kẹo kéo trên chiếc xe máy cà tàng tỏa ra, bắt đầu một “đêm” mưu sinh. Đồ nghề của họ là một chiếc thùng bằng gỗ được sơn phết và đặt cẩn thận phía sau xe. Dàn loa, máy phát, mi-crô và ampli chỉnh âm đặt gọn ở phía trên thùng, phía dưới là la liệt kẹo kéo, kẹo cao su dạng thỏi, dạng vỉ. 

Làm nghề này những tưởng đơn giản, ấy vậy mà người bán cũng phải biết thức thời theo thị trường. Trước đây đa số họ chỉ bán kẹo kéo, một mẻ kẹo như vậy, nếu làm tốt có thể kéo được 600 cây, ít hơn thì khoảng 400 đến 500 cây rồi chia cho các đệ tử. Tuy nhiên bây giờ, người ta không còn mặn mà với kẹo kéo, để đáp ứng được nhu cầu của khách, họ phải lấy thêm đủ thứ kẹo cao su để bán. “Kẹo cao su tiện lợi, lại thơm miệng nên được khách mua nhiều hơn,” Điền cho biết. “Bán được 500 ngàn thì tụi em được chia lại 175 ngàn, còn tiền xăng, tiền ăn ở đều do chủ lo,” Điền kể thêm.

Khi “xuất quân” từ tầm 19 giờ nhưng theo Điền đấy chỉ là giờ khởi động. Còn “khung giờ vàng” là từ 21 đến 23 giờ, bởi vào thời điểm này các khách ăn uống theo gia đình đã bớt dần, còn lại đa phần là bạn bè hoặc tình nhân, những vị khách này thường phóng khoáng và hay mua ủng hộ anh em. 

Mỗi đêm như vậy, nếu thời tiết tốt, trung bình một người có thể chạy từ 4 đến 5 “điểm,” vừa diễn vừa bán. “Điểm” ở đây là những quán nhậu vỉa hè, quán ăn về đêm, càng đông người càng tốt. Đang “diễn” mà mưa giữa chừng thì phải ráng, lấy áo mưa trùm máy móc để tránh chập điện hư hỏng, còn mình ráng được tới đâu thì ráng. Hôm nào mưa suốt thì chỉ có nước nằm nhà trùm mền và rầu thúi ruột. 

Mấy bữa mưa tối mắt tối mũi, ngồi cafe gần chỗ Điền ở, gọi điện ra nói chuyện chơi, quán cũng bình dân, uống xong ly cafe, Điền ái ngại: “Trước đến nay em chỉ ngồi cafe cóc.” Hỏi chuyện bán buôn, Điền nói lí nhí như con mèo mắc mưa: “Mấy hôm nay mưa suốt, tụi em nằm nhà không hà, em đang bị viêm họng nữa.” Hỏi tiền đâu sống, Điền cười méo xệch: “Phải ráng chớ biết sao bây giờ.”

Theo đà phát triển của các quán nhậu, quán ăn, người bán kẹo kéo cũng có thêm địa bàn hoạt động. Tuy nhiên, không phải quán nào cũng cho họ hành nghề. Để được bán kẹo, họ phải năn nỉ ỉ ôi quản lý quán hoặc bảo vệ. Một số quán còn có tiền lệ không cho kẹo kéo hát nữa vì sợ làm phiền khách và gây mất trật tự.

Đáng ngại hơn, người ta không nói với mình là không cho bán mà lặng lẽ kêu công an. Làm nghề tụi em có hai cái ngại lớn nhất, một là ngại va chạm khách, hai là ngại gặp công an. Chuyện khách nhậu xỉn chửi mắng và mạt sát tụi em như cơm bữa,” Điền bộc bạch.

Nghe Điền kể, anh Sơn, giữ xe quán 535, Huỳnh Tấn Phát, quận 7 cho biết thêm: “Nói đâu xa, hôm qua cũng có một nhóc kẹo kéo bán ở đây, có một thằng cha cầm micrô của người ta hát hoài không trả, tới chừng thằng nhỏ xin lại để đi quán khác thì đập cái micrô của người ta, còn toan đạp đổ xe, may mà có mấy anh em giữ xe ở đây ra can.

Điền cũng đã nhiều lần bị công an “hốt,” có anh thương tình chỉ cảnh cáo, có người thì phạt tiền cho sợ, nhưng cũng có người làm khó. Kể đến đây, Điền rùng mình nhớ lại khoảng thời gian cách đây bảy, tám năm khi bị công an phường ở quận 1 hốt một cách thê thảm. Ông bà chủ phải chạy vạy mượn khắp xóm, gần 10 ngày mới có đủ tiền để chuộc thùng kẹo. Về đến nhà, hai thầy trò ngồi nhìn nhau mà nước mắt chảy ròng ròng. Lần khác thì bị công an phường N cùng quận giữ thùng 30 ngày, tiền phạt chỉ có 800 ngàn nhưng cứ hẹn ông Long chạy lên chạy xuống bở hơi tay. “Thùng kẹo với cái xe là cần câu cơm của tụi em, giữ cả tháng trời thì tụi em biết lấy gì sống!”

Âm thầm theo chân Điền vào một buổi tối, tôi mới hiểu được hết tình cảm những con người lao động nghèo dành cho nhau. Điền chạy đi diễn, thấy quán nào đã có anh em rồi, dù thuộc hay không thuộc “phe” mình cũng chạy sang quán khác. 

Điền chia sẻ: “Anh em cùng cảnh ngộ như nhau, giữa tụi em chưa hề có sự cạnh tranh kiểu đánh nhau hoặc cãi nhau để giành địa bàn.” Đó cũng là quy luật bất thành văn của giới kẹo kéo. Thế mới biết, dù trong hoàn cảnh khó khăn nhưng họ vẫn giữ được tinh thần bảo bọc nhau để sống. Có hôm mấy anh em kẹo kéo hành nghề “tự do” từ Gò Vấp chạy sang quận 7 “đổi gió” một hai đêm, nhưng giá kẹo bán thấp hơn. Vậy là mấy anh em chủ động bắt liên lạc với nhau, thống nhất về giá để anh em bên này thuận buôn bán.

Mấy anh em giữ xe ở các quán đêm mà Điền được “cấp phép” hành nghề cũng rất quý và thương Điền. Vừa thấy bóng Điền, một cậu nhỏ giữ xe trạc hai mươi tuổi đã lên tiếng: “Anh Mai-cồ mấy nay bán đỡ không?” Khi Điền nhảy say mê hoặc vào quán bán kẹo thì họ ngoài việc trông xe cho khách cũng liếc mắt, trông hộ luôn chiếc xe của Điền. Điền bảo nhiều khi gặp khách quấy phá, khó chịu thì cũng nhờ mấy anh em tiếp viên của quán cả.

Nghề kẹo kéo cũng không còn thịnh hành như trước, hỏi Điền định làm gì, còn tính chuyện vợ con. Điền cười trừ, rồi trầm ngâm: “Em cũng chưa biết tính thế nào nữa vì làm gì cũng cần có tiền. Nếu có tiền, em sẽ đi học cái gì đó liên quan về nhạc… Thôi, tới đâu hay tới đó, miễn sao mình sống lương thiện là được.

Nỗi lòng “ông bầu” sa cơ

Ông “bầu” kẹo kéo tự hào khoe về truyền thống gia đình

Xóm kẹo kéo nằm lọt thỏm trong con hẻm quy hoạch treo lầy lội trên đường Trần Xuân Soạn, phường Tân Hưng, quận 7, giữa dự án Sunrise City (đường Nguyễn Hữu Thọ) và khu dân cư Trung Sơn với những tòa nhà cao tầng, biệt thự… cạnh rạch Ông Lớn.

Cảnh hai bên càng hiện đại, sạch sẽ và kiên cố bao nhiêu càng làm nổi bật cái nhếch nhác, tạm bợ của xóm kẹo kéo. Nhà của ông “bầu” kẹo kéo Trần Vương Long là căn lều khá nhất trong ba căn lều của xóm này, dựng theo kiểu nhà sàn, bốn phía đóng tôn, rộng chừng 10m2. Đồ vật đáng giá nhất trong căn nhà có lẽ là chiếc tivi đời cũ với cái đầu đĩa bạc thếch và trầy trụa. Một tủ quần áo, một chiếc bàn xếp chất đầy sách vở của cô con gái út và bày la liệt kẹo cao su. Tôi tự hỏi không biết họ xoay xở như thế nào để vợ chồng con cái có thể ngủ được vào ban đêm.

“Bếp ăn” ngoài trời

Khác với hình dung, “bầu” Long có gương mặt hiền từ, ánh mắt lúc nào cũng khắc khổ như ẩn chứa quá nhiều thăng trầm cuộc sống của một con người đã lăn lộn, từng trải. Cách nói chuyện và suy nghĩ của người đàn ông 48 tuổi này gợi cho người đối diện cảm giác ông là người đầy trách nhiệm và nhiều nỗi lo, bởi ông không chỉ bận tâm cho cuộc sống của gia đình mình. Dường như, nghề kẹo kéo vận vào ông như một cái nghiệp chứ nếu bản thân ông được giữ một trách nhiệm nào đó có lẽ đời sống của người lao động sẽ được chăm chút hơn.

Trong câu chuyện, ông luôn tự hào khoe về truyền thống của gia đình để rồi sau đó, ông luôn tự trách mình đã không đạt được thành công như bố mẹ kỳ vọng mà phải lăn lộn mưu sinh ở đất Sài Gòn. Mỗi khi về lại Cần Thơ thăm người mẹ đã ở cái tuổi gần đất xa trời, ông chẳng bao giờ dám kể với mẹ rằng ông sống ở Sài Gòn và kiếm cơm bằng nghề kẹo kéo. “Đây là nghề chân chính, tôi không tủi nhục nhưng tôi sợ mẹ tôi lo lắng và thêm bệnh,” ông chia sẻ.

Trần Vương Long đặt chân lên Sài Gòn từ năm 25 tuổi và bôn ba khắp nơi làm đủ nghề để kiếm sống, từ bốc xếp, thợ hồ, mua bán cây giống… Cuộc sống khấm khá dần, ông mở trại làm cây giống ở tỉnh Bình Thuận, niềm vui chưa được bao lâu thì trại cây giải thể, ông lại về Sài Gòn cùng vợ buôn bán rau củ quả tại Bến Chương Dương. Năm 2000, đại lộ Đông Tây khởi công, căn nhà của vợ chồng ông ở Bến Chương Dương thuộc diện giải tỏa. Cầm số tiền đền bù trên tay, ông lúng túng không biết làm gì. Nghe người bạn giới thiệu, ông sang quận 7 mua một mảnh đất ven sông và dựng tạm vài phòng trọ cho dân lao động thuê để kiếm đồng ra đồng vào trang trải chi phí sinh hoạt và chuyện học hành cho con.

Cũng chính cuộc sống nơi dãy trọ này đã đẩy đưa ông gặp anh Hải kẹo kéo. Thấy ông có hoàn cảnh cơ cực, phải gồng gánh nuôi con ăn học, anh Hải đã không ngần ngại truyền nghề và còn nhường luôn Điền, đệ tử ruột của anh lại cho ông. Học được một năm thì ông mạnh dạn vét số tiền đền bù còn lại sắm sửa đồ nghề và bắt đầu thu nhận đệ tử. Mỗi bộ đồ nghề gồm một chiếc xe máy cũ, tuy cà tàng nhưng máy móc phải ngon lành, rồi thùng, loa, đĩa, ampli chỉnh âm cùng một vài thứ lặt vặt khác. Tưởng đơn giản vậy nhưng mỗi bộ đồ nghề cũng ngốn mất của ông từ 15 đến 20 triệu đồng.

Hát và bán kẹo kéo ở quán ăn vỉa hè

Hỏi sao lúc ấy ông lại chọn nghề kẹo kéo? Ông cười buồn bảo, khi nhà bị giải tỏa, mất thế buôn bán, ông cảm thấy lúng túng, không biết làm gì để kiếm sống. Thấy nghề kẹo kéo hay hay, nghĩ rằng sẽ kiếm sống đắp đổi qua ngày được nên quyết định làm chứ ông không nuôi mộng làm giàu, kiếm chác từ việc bóc lột sức lao động của người khác. Tùy sức và khả năng của từng người mà có bữa bán nhiều bán ít, ông không bao giờ bắt ép hay ra quy định mỗi bữa phải được bao nhiêu. “Trung bình mỗi bữa, tôi có khoảng 500 ngàn – 1 triệu đồng từ việc đi bán của các đệ tử, lo chi phí ăn uống cho gia đình và các đệ tử cũng gần hết phân nửa, rồi tiền điện, nước mỗi tháng, thuốc thang cho anh em mỗi khi ốm đau, chuyện học hành của con cái. Những tháng mưa, anh em không đi bán được, mình cũng phải lo cơm nước đàng hoàng chớ đâu bỏ anh em được,” ông bộc bạch.

Mười mấy năm theo nghề kẹo kéo, ông đã nhận và đào tạo không biết bao nhiêu chàng trai nghèo đam mê ca hát nhưng không có điều kiện học hành. Người thì đến với ông vài tháng học nghề rồi ra riêng, người thì làm một hai năm để kiếm chút vốn, người thì gắn bó lâu năm như Điền, Thiện, Bi với đủ chuyện vui buồn, sướng khổ. 

Chừng ấy con người là chừng ấy hoàn cảnh, chừng ấy mảnh đời mà không bút mực nào có thể diễn tả hết. Từng mảnh đời cơ cực ấy cộng sinh trong một môi trường sống buồn vui lẫn lộn, mà nếu không có tình thương, lòng bao dung và định hướng của ông Long, hẳn họ đã không thể vượt qua được. Không ít lần biết đệ tử qua mặt mình với đủ trò, đổ không đủ xăng, lấy thêm kẹo bên ngoài để bán, ông đều nhắm mắt cho qua, bởi theo ông, “nó cũng có cái khó của nó.

Cá biệt có cậu bé quê ở Phú Yên theo ông từ năm 14 tuổi, làm nghề được hai năm thì “cuỗm” luôn cái xe của ông đem về quê. Nó bị công an bắt ngay sau đó. Ông tiền vay bạc mượn, cùng Điền ra tận Phú Yên chuộc xe và bảo lãnh cho nó về với gia đình. Biết nó giờ đây đã ổn định cuộc sống, nghề nghiệp đàng hoàng, ông không khỏi vui mừng trong lòng. 

Chính cách làm nghề tận tâm, yêu thương “đệ tử” như con cái trong nhà nên có khá nhiều “lính” của các bầu kẹo kéo khác biết tiếng, xin “gia nhập” đội quân kẹo kéo của ông nhưng ông đều từ chối, bởi theo ông: “Làm thế là cướp mất chén cơm của người ta”. Đó cũng chính là lý do khiến Điền đã đôi lần nghĩ đến việc ra làm riêng cũng đành gác lại, bởi: “Tình thầy trò mười mấy năm gắn bó, cực khổ vất vả có nhau, giờ chú đang gặp khó khăn, mình ra riêng coi không được.” Mỗi khi nói về ông, Điền, Thiện, Bi đều dành cho ông niềm kính trọng rất đặc biệt như tình cha con. 

Rồi những Nghĩa, Trường… cùng nhiều cái tên mà ông không thể nào nhớ hết, dù ở Sài Gòn hay ở tỉnh, còn hoặc không còn trụ với nghề kẹo kéo, thi thoảng vẫn gọi điện hỏi thăm sức khỏe ông. Người có điều kiện hơn thì thỉnh thoảng lại về thăm. Những điều tưởng chừng như nhỏ nhặt ấy đã động viên và an ủi ông, giúp ông bám nghề đến hôm nay.

Hỏi bây giờ ông mong ước điều gì nhất? Ông cười buồn bảo có đến ba mơ ước. Một là mong nhà nước có chính sách gì đó hỗ trợ người lao động nghèo, đặc biệt là những người buôn gánh bán bưng để họ có thể ổn định cuộc sống. Hai là con cái học hành tới nơi tới chốn, có cuộc sống đỡ vất vả hơn ông. Ba là mảnh đất nơi ông ở không còn thuộc diện quy hoạch treo nữa để có thể dựng cái nhà đàng hoàng hơn cho mấy anh em ở.

Tôi rời xóm kẹo kéo lúc xế trưa. Sát nhà ông Long, một chiếc ghe máy chở đầy dừa và chuối đang từ từ cập bến. Tiếng người í ới gọi nhau ra đem trái cây lên bờ. Tôi những tưởng mình đang ở một miền quê nào đó. Nhưng đấy không còn là miền quê yên ả như người ta vẫn nghĩ mà đầy nặng về nỗi lo miếng cơm manh áo. Viết đến đây, tôi cứ nuôi trong lòng mình tia hy vọng, một ngày nào đó, những con người lao khổ, phải bôn ba nơi này có được một mái nhà vững chãi, một công việc ổn định để con cái họ được học hành đến nơi đến chốn và có được cuộc sống đỡ vất vả hơn cuộc sống của cha mẹ nó bây giờ. Liệu hy vọng ấy có xa xôi quá chăng?

Mai-cồ Điền và bước nhảy học theo Michael Jackson

You may also like

Verified by MonsterInsights