Yếu tố Hán Việt trong lời ca tân cổ nhạc

by Tim Bui

HẠO NHIÊN

Trong một bản nhạc có lời thì ngoài nhạc điệu, ý nghĩa của lời ca là một yếu tố quan trọng không thể xem thường, gây được nhiều cảm xúc đối với người thưởng thức.

Ở nước ta, việc đặt lời cho nhạc mới có ký âm đã được khởi đầu trong khoảng những năm 1930-1938, với một số tác giả tiêu biểu như Đinh Nhu, Lê Yên, Lê Thương, Nguyễn Văn Tuyên… Còn về cổ nhạc, hay đúng hơn là bản vọng cổ chúng ta thường nghe, được coi như khởi đầu từ bản Dạ cổ hoài lang nổi tiếng do nhạc sĩ Cao Văn Lầu (1880-1976) sáng tác khoảng năm 1919.
Không kể loại “nhạc trẻ” (miền Nam đầu thập niên 60), tất cả những bản tân cổ nhạc sáng tác trong giai đoạn kể trên kéo dài cho đến những năm 60 của thế kỷ trước, nói chung đều xuất hiện trong thời kỳ Hán học suy tàn hoặc chỉ còn chút dư âm của nền học cổ, nên lời ca đa số đều dùng từ thuần Việt. 

Tuy nhiên, nguyên tắc kế thừa là một quy luật của mọi hoạt động sáng tạo khoa học và nghệ thuật, không loại trừ ngành âm nhạc: do đặc điểm của tiếng Việt với nhiều từ gốc Hán, cũng như do phần lớn nhạc sĩ sáng tác đều sống trong giai đoạn giao thoa giữa tân và cổ học, chịu ảnh hưởng nhiều bởi thơ văn cổ điển và họ sẵn có một số vốn ngôn ngữ Hán Việt nhất định, nên mặc dù các nhạc sĩ thế hệ trước này không phải nhà nho hay người tinh thông Hán học, trong ca từ (lời ca) cả tân lẫn cổ nhạc của họ tất yếu tương đối phổ biến có những bài chứa đựng nhiều yếu tố Hán Việt (tiếng Việt gốc Hán) mà sự vận dụng ngôn từ điêu luyện đã giúp tạo nên những ca khúc độc đáo đến nay vẫn còn  ăn sâu trong lòng người, được nhiều người nhớ, thuộc.

Loại từ Hán Việt dùng xen với từ thuần Việt trong các ca khúc tân cổ nhạc thường là những từ tương đối dễ hiểu mà một người ở lớp tuổi trung niên có kiến thức phổ thông trung bình không cần giảng giải cũng có thể hiểu được, hoặc chúng tuy là từ gốc Hán nhưng đã được hội nhập dùng quen lâu trở thành như tiếng Việt (như sư phụ, đệ tử, tiểu đệ, chiến sĩ, chinh phu, chinh phụ, cố hương, gia đình, đoạn trường, gian tà, hận thù, phảng phất…).

Cứ lấy ngay vài câu trong một bài hát được nhiều người ưa thích như “Đêm Đông” (1939) của nhạc sĩ Nguyễn Văn Thương (1919-2002) là thấy rõ:

Đêm Đông, xa trông cố hương buồn lòng chinh phu
Đêm Đông, bên sông ngẩn ngơ, kìa ai mong chồng
Đêm Đông, thi nhân lắng nghe tâm hồn tương tư
Đêm Đông, ca nhi đối gương ôm sầu riêng bóng
Gió nghiêng chiều nay, gió lay ngàn cây, gió nâng thuyền mây
Gió gieo sầu miên, gió đau niềm riêng, gió than triền miên

Đêm Đông, ta lê bước chân phong trần tha phương
Có ai thấu tình cô lữ đêm Đông không nhà?

Hầu như câu nào cũng có từ Hán Việt xen vào từ thuần Việt một cách tự nhiên nhuần nhuyễn. Không kể những từ gần như đã Việt hóa hoàn toàn, như cố hương, thi nhân, tâm hồn, triền miên, gia đình, sầu…, đã được dùng rất đạt, chẳng những bảo đảm về các mặt âm thanh, tiết tấu, vần điệu mà còn đạt cả ý lẫn lời nữa.

Như trong bài “Đêm Đông”, chỉ ngắn gọn mấy từ Hán Việt mà tả ra thật rõ cái lòng dạt dào thổn thức của một kẻ xa nhà trong một đêm Đông lạnh lẽo cô đơn: chinh phu, ca nhi, sầu miên, phong trần tha phương, cô lữ. Giả định nếu đổi “ca nhi” thành “con hát” hoặc “cô đầu”, “sầu miên” thành “giấc ngủ buồn, đêm ngủ buồn”, “đối gương” thành “nhìn gương, xem gương” thì bài hát coi như lạc điệu!

Chúng ta có thể đoan chắc, tác giả bài “Đêm Đông” dù chẳng phải tinh thông Hán học, nhưng nếu ông không thuộc ít nhiều  mấy bài thơ Đường nổi tiếng như “Phong kiều dạ bạc” (của Trương Kế), “Dạ bạc Tần Hoài” (của Đỗ Mục), hoặc đọc qua mấy bài “Tư cố hương”, “Xuân dạ đào yến viên tự” (của Lý Bạch) và đã ghi sâu chúng vào tiềm thức trước đó từ lâu thì ông cũng khó thể vận dụng được mấy từ ca nhi, sâu miên, cô lữ

Tương tự như vậy, bài thơ Chiều đã phổ nhạc của Hồ Dzếnh cũng chịu ảnh hưởng sâu sắc thơ Lý Bạch, rõ nhất ở những câu: Tôi là người lữ khách… nhớ nhà châm điếu thuốc (ảnh hưởng bài “Tư cố hương”), Có phải sầu vạn cổ (câu cuối cùng trong bài “Tương tiến tửu” của họ Lý: Dữ nhĩ đồng tiêu vạn cổ sầu).

Trong bài thơ “Tống biệt hành” của Thâm Tâm (Trầm Tử Thiêng phổ nhạc), hai chữ “ly khách, ly khách” (trong câu: Ly khách, ly khách con đường nhỏ) lặp đi lặp lại đã trở thành đoạn nổi bật nhất trong bài thơ/ bản nhạc. Còn câu Ở đây sương khói mờ nhân ảnh trong bài thơ “Đây thôn Vỹ Dạ” (Phạm Duy phổ nhạc) lẽ nào không chịu ảnh hưởng của thơ Cung oán ngâm?: Cái quay búng sẵn trên trời/ Mờ mờ nhân ảnh như người đi đêm.

Không ít trường hợp, tác giả dùng luôn từ Hán Việt ngay trong nhan đề bài thơ/ bản nhạc, như bài “Tống biệt hành” (Thâm Tâm), “Dạ cổ hoài lang” (Cao Văn Lầu), “Biệt kinh kỳ” (Hoài Linh-Minh Kỳ)… Riêng trong “Biệt kinh kỳ”, một số từ Hán Việt đã được dùng rất đạt: Bạn ơi, quan hà xin cạn chén ly bôi

Tương tự, trong bài “Chiều mưa biên giới” của Nguyễn Văn Đông, nhiều từ Hán Việt cũng đã được dùng rất nhuyễn: giang đầu, âm u, cô đơn, hậu phương, sa trường… Hay nhất là hai chữ giang đầu (có thể được gợi ý từ câu thơ cổ: Quân tại Tương giang đầu), nếu đổi thành “đầu sông” sẽ trở thành… trớt quớt!

Đôi khi có tác giả còn gieo luôn cả một câu toàn từ Hán vào trong bài hát. như trong bài “Anh đi chiến dịch” của Phạm Đình Chương. Không kể những từ lẻ như: chiến dịch, sa trường, quân hành, u ẩn, quang vinh , tác giả đã cho tương luôn một câu toàn chữ Hán, mà lại là ở đoạn nhạc hùng hồn nhất: Nam nhi cổ lai chinh chiến hề.

Ở nhiều bài vọng cổ, đặc biệt có nội dung lấy từ tuồng tích cổ, thì soạn giả Viễn Châu (1924-2016) có lẽ là người sở trường nhất, như trong những bài “Thầy Tử Lộ đội gạo đường xa”, “Tôn Tẫn giả điên”…

Trong bài “Ông lão chèo đò”, cũng của Viễn Châu, tuy đa số dùng từ thuần Việt, ta vẫn bắt gặp nhan nhản những từ gốc Hán: cơ đồ, phú quý, đỉnh chung, lữ hành, nhân tình, trầm ngâm, bình minh, hoàng hôn, sanh ký tử quy, thế gian, hưng vong, thế sự thăng trầm, bất giác, ba đào, phù du, vô sự, công danh

Đặc biệt trong bài “Tần Quỳnh khóc bạn” của soạn giả Viễn Châu, ngay câu đầu đã có: hung tin (hung tín), nhị ca, thọ khổn, pháp trường, đao phủ, hành quyết.

Đến câu 6 cuối, nghệ thuật dùng từ Hán Việt đã lên tới tuyệt đỉnh:

Đơn nhị ca ôi,
Ôm thây anh mà máu thấm nhuộm chinh y
Lòng tiểu đệ thêm não nề chua xót
Chợt nhớ câu: Tiền đồng tịch kim bằng cộng lạc, hậu lâm nguy bất kiến đệ huynh
Đấng anh hùng nào há ngại tồn vong
Nhưng chết tức tưởi nhị ca đành di hận
Em xin cầu chúc cho anh sớm tiêu diêu nơi miền lạc cảnh
Bởi có câu sanh vi tướng tử vi thần
Kiếp này đây mộng đồ vương anh không đắc kỳ sở nguyện
Em tin tưởng sau này anh sẽ trả được hận thù trong kiếp lai sinh.

Cũng cần lưu ý thêm, trong khi vận dụng ngôn ngữ để đưa từ gốc Hán vào ca khúc, một số từ đã được biến âm cho phù hợp với vần điệu, như hung tín thành hung tin (tin dữ), thọ khốn thành thọ khổn, vong thệ thành vong thề (quên lời thề), tai nạn thành tai nàn… 

Chỉ cần một kiến thức phổ thông bình thường, cho dù một số ca khúc để đời dùng khá nhiều từ gốc Hán, người Việt nghe tân cổ nhạc thời trước 1975 ai cũng hiểu, cũng thấm ý, như được rót vào lòng từng câu chữ qua những lời ca ngọt ngào đầy tâm huyết, thấm đậm tình cảm con người…

You may also like

Verified by MonsterInsights